Trang

Diệp Kính Thiên: Nguyễn Tấn Dũng có thắng không?

Khả năng được đề cử chức Tổng bí thư khóa 12 cho Nguyễn Tấn Dũng có thể chắc chắn. Đây mới chỉ là hiệp một. Sang hiệp hai – bầu cử Ban chấp hành Trung ương khóa 12 – mới là chủ yếu.

Anh Ba Thanh: Nguyễn Phú Trọng sẽ làm Tổng bí thư nửa nhiệm kỳ đầu khóa XII ?

Khai mạc hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hé lộ một chi tiết đáng lưu ý trong báo cáo đó là về đề xuất tiêu chí xem xét trường hợp "đặc biệt"

Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhật Bản. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhật Bản. Hiển thị tất cả bài đăng

24.6.12

Lý do Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông

Trong thời gian gần đây, mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc ngày càng rõ nét, thông qua vụ tranh chấp bãi cạn Scarbourough với Philippines, dùng tàu “áp tải” tàu chiến Ấn Độ ở Biển Đông và mới đây nhất là vụ Bắc Kinh phản đối Luật Biển Việt Nam mà Quốc hội vừa thông qua.


Để góp phần làm sáng tỏ vấn đề, Đất Việt xin giới thiệu với độc giả bài viết “Why China Wants South China Sea” (Vì sao Trung Quốc muốn có Biển Đông) của nhà nghiên cứu Tetsuo Kotani, Viện Okazaki, Nhật Bản, đăng trên mạng The Diplomat ngày 18/6/2011. Tuy được viết cách đây tròn một năm, nhưng những vấn đề mà tác giả nêu ra vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi.

Trong bài viết nói trên, nhà nghiên cứu Tetsuo Kotani cho rằng Bắc Kinh muốn độc chiếm Biển Đông không chỉ vì nguồn tài nguyên năng lượng và thủy sản, mà còn vì vùng biển này nằm trong chiến lược tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc.
Một căn cứ tàu ngầm của Trung Quốc. Ảnh worldefensenews.com 
Trong nỗ lực nhấn mạnh tầm quan trọng của khu vực này đối với châu Á, nhà phân tích địa chiến lược Nicholas Spykman đã từng mô tả Biển Đông là “Địa Trung Hải của châu Á”. Và cũng giống như Đế quốc La Mã từng kiểm soát Địa Trung Hải và Mỹ kiểm soát vùng biển  Caribe, Trung Quốc hiện đang tìm cách thống trị Biển Đông.

Rõ ràng, những tuyên bố chủ quyền và sự quyết đoán gần đây của Trung Quốc đang làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông. Mặc dù phần lớn sự chú ý tập trung vào sự thèm khát các nguồn tài nguyên thủy sản và năng lượng của Bắc Kinh, vùng biển “nửa kín, nửa hở” này là một phần không thể tách rời trong chiến lược tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc. Và nếu không hiểu rõ tầm cỡ của yếu tố tàu ngầm hạt nhân trong các tranh chấp ở Biển Đông, người ta không thể thấu hiểu sự bành trướng trên biển của Trung Quốc.

Sở hữu khả năng răn đe hạt nhân trên biển đáng tin cậy là một ưu tiên trong chiến lược quân sự của Trung Quốc. Tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân Type 092 (lớp Hạ) được trang bị tên lửa đạn đạo tầm ngắn phóng từ tàu ngầm JL-1 (SLBM) của Trung Quốc chưa từng tiến hành hoạt động tuần tra răn đe trên biển Bột Hải kể từ khi  được đưa vào hoạt động hồi những năm 1980. 

Tuy nhiên, Trung Quốc sắp có khả năng tấn công thứ hai đáng tin cậy khi nước này đưa vào sử dụng các tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm thế hệ hai JL-2 có tầm bắn ước tính 8.000km, cùng với các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa cơ động (ICBM) DF-31 và DF-31A. Bên cạnh đó, Trung Quốc có kế hoạch đưa vào hoạt động tới 5 chiếc tàu ngầm Type 094 (lớp Tấn) được trang bị các tên lửa JL-2 và đang xây dựng căn cứ tàu ngầm ở đảo Hải Nam. 

Rõ ràng, Trung Quốc đang tiến hành mọi nỗ lực để kiểm soát Biển Đông như Liên Xô trước đây đã từng làm ở biển Okhotsk trong thời Chiến tranh Lạnh. Trước đó, Liên Xô đã từng sử dụng các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân và được trang bị tên lửa đạn đạo (SSBN) nhằm chống lại khả năng triển khai các tên lửa đạn đạo ICBM của Mỹ ở trên mặt đất. Cùng với biển Barents, Moskva ưu tiên biến biển Okhotsk thành nơi trú ẩn an toàn cho các SSBN bằng cách cải thiện phòng thủ cho quần đảo Kuril và tăng cường Hạm đội Thái Bình Dương đóng ở Vladivostok. Hạm đội Thái Bình Dương triển khai 100 tàu ngầm - cùng với 140 tàu chiến, trong đó có một tàu sân bay lớp Kiev - để bảo vệ lực lượng này ở biển Okhotsk. 
Hạm đội tàu ngầm Type 094 của Trung Quốc. Ảnh militaryphotos.net
Cũng giống như vậy, Trung Quốc cần bảo vệ các lực lượng ở Biển Đông, thay đổi chiến lược và học thuyết biển một cách phù hợp. Hiện nay, các chức năng chiến tranh chủ chốt của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) gồm: 1) bảo đảm các con đường tiếp cận trên biển tới Đài Loan; 2) tiến hành các chiến dịch ở phía Tây Thái Bình Dương để không cho các lực lượng thù địch tự do hành động; 3) bảo vệ các tuyến giao thông đường biển của Trung Quốc và 4) chặn các tuyến giao thông đường biển của kẻ thù. 

Với việc đưa vào sử dụng tàu ngầm Type 094, việc bảo vệ các SSBN của Trung Quốc sẽ trở thành một chức năng quan trọng khác của Hải quân Trung Quốc và chức năng này sẽ đòi hỏi Trung Quốc phải tiêu diệt các lực lượng chống tàu ngầm chiến lược thù địch và kết liễu sự kháng cự của các nước cũng tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông. Khả năng chống và ngăn cản xâm nhập của Trung Quốc, nhất là đối với các tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân ít gây tiếng động, có thể được sử dụng để chống lại các chiến dịch tấn công chống tàu ngầm của kẻ thù.

Các tàu sân bay của Trung Quốc, khi được đưa vào hoạt động, sẽ được triển khai ở Biển Đông để buộc các nước láng giềng cùng tuyên bố chủ quyền phải câm lặng. 

Chiến lược này đã từng áp dụng gần hai thập kỷ trước tại thời điểm Trung Quốc bắt đầu bao vây Biển Đông để lấp đi khoảng trống quyền lực do việc Mỹ rút lực lượng quân sự ra khỏi Philippines năm 1991. Trung Quốc tái khẳng định các tuyên bố chủ quyền “mang tính lịch sử” đối với tất cả các đảo nhỏ, trong đó có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và gần 80% trong tổng số 3,5 triệu km2 vùng biển chạy dọc theo đường 9 đoạn hình chữ U mặc dù không có cơ sở pháp lý quốc tế nào. 
Đường "lưỡi bò" thâu tóm Biển Đông. Ảnh BBC News
Các hòn đảo nhỏ này có thể sử dụng làm các căn cứ không quân và hải quân cho các hoạt động tình báo, theo dõi và do thám, và là các căn cứ để tuyên bố chủ quyền đối với các phần sâu hơn trên Biển Đông để xây dựng căn cứ cho các tàu ngầm được trang bị các tên lửa đạn đạo và các tàu khác. Trung Quốc diễn giải Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) một cách độc đoán và không chấp nhận các hoạt động quân sự của các tàu và máy bay nước ngoài trên lãnh hải của nước này. 

Tuy nhiên, các nỗ lực nhằm thống trị Biển Đông của Trung Quốc đang gặp phải nhiều thách thức lớn. Sự quyết đoán của Trung Quốc không chỉ thổi bùng sự thù hận của các nước cũng tuyên bố chủ quyền khác mà còn làm gia tăng quan ngại của các nước cũng đi lại trên biển khác như Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ. Trên hết, không giống như biển Okhotsk, Biển Đông được coi là tuyến hàng hải được quốc tế được thừa nhận. 

Bên cạnh đó, do các tên lửa JL-2 không thể từ Biển Đông vươn tới Los Angeles, các tàu ngầm Type 094 cần phải đi vào biển Philippines, nơi Hải quân Mỹ và Lực lượng Phòng vệ trên biển (MSDF) của Nhật Bản đang tăng cường tiến hành các chiến dịch chống tàu ngầm. 

Để làm yên lòng các nước láng giềng cũng tuyên bố chủ quyền, Trung Quốc đã tiến hành các cuộc đối thoại và tham vấn với các nước này kể từ những năm 1990. Kết quả là sự ra đời của Tuyên bố chung về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002, trong đó kêu gọi giải quyết các vấn đề một cách hòa bình thông qua đối thoại. Tuy nhiên, Trung Quốc không sẵn sàng ký kết một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc. 

Để đối phó với sự quyết đoán gần đây của Trung Quốc, Việt Nam và Philippines  đã tiến hành các cuộc diễn tập bắn đạn thật ở các vùng biển tranh chấp và tăng cường quan hệ với Mỹ. Sự hiện diện của Mỹ được cả hai nước coi là phương pháp răn đe rõ ràng nhất. 

Về phần mình, Mỹ đã phản đối hành động quyết đoán của Trung Quốc tại nhiều diễn đàn khu vực bằng cách nhấn mạnh sự quan tâm của nước này đối với quyền tự do hàng hải. Mỹ đã thông báo triển khai nhiều tàu chiến ven biển ở Singapore, với hy vọng sự hiện diện của chúng sẽ làm tăng tác dụng răn đe đối với sự quyết đoán của Trung Quốc. 

Mặt khác, do các tuyên bố chủ quyền quá đáng của Trung Quốc đã dẫn tới các sự cố như đã từng xảy ra năm 2001 với máy bay do thám EP-3 và năm 2009 với tàu Impeccable, Mỹ tìm kiếm thỏa thuận về biển với Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc không quan tâm tới bất cứ những gì tương tự vì một thỏa thuận như vậy sẽ bào chữa cho sự hiện diện liên tục của Mỹ ở Biển Đông. 

Ấn Độ là một nước nữa có vai trò quan trọng ở Biển Đông. New Delhi sẽ sớm đưa vào sử dụng tàu ngầm được trang bị tên lửa đạn đạo đầu tiên Arihant và có kế hoạch đóng thêm hai tàu tương tự khác, được trang bị tên lửa đạn đạo tầm xa K-4. Tuy nhiên, cho đến khi thành công trong việc phát triển SLBM tầm xa, các tàu ngầm của Ấn Độ cần phải hoạt động trên Biển Đông để chĩa mũi nhọn vào Bắc Kinh. 

Australia cũng quan ngại về tình trạng căng thẳng cao độ ở khu vực. Sự ổn định ở Đông Nam Á được các nhà hoạch định chính sách Australia coi là đặc biệt quan trọng vì một quốc gia thù địch có thể phô trương quyền lực hay đe dọa các tuyến thương mại đường biển và tuyến đường cung cấp năng lượng cho Australia. Kết quả, Australia sẽ tăng cường sự hiện diện quân sự ở các bang phía Bắc nước này, đồng thời cho phép quân đội Mỹ tiếp cận các căn cứ quân sự của nước này. 

Trong khi đó, Tokyo cũng có những lợi ích chiến lược ở Biển Đông, một tuyến đường biển cực kỳ quan trọng,  bởi vì khoảng 90% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua tuyến đường này. Tương quan lực lượng ở Biển Đông có ảnh hưởng lớn đối với an ninh trên các vùng biển xung quanh Nhật Bản, trong đó có biển Hoa Đông và biển Philippines. Bên cạnh đó, nếu Trung Quốc thành công trong việc đạt được khả năng tấn công thứ 2 trên biển bằng cách thống trị Biển Đông, điều đó sẽ hủy hoại sự tin cậy vào khả năng răn đe của Mỹ. 

Nhật Bản đã công bố Những nguyên tắc chỉ đạo chương trình quốc phòng mới hồi tháng 12/2010, trong đó kêu gọi tăng cường các hoạt động tình báo, giám sát và do thám dọc theo chuỗi đảo Ryukyu và tăng cường lực lượng tàu ngầm. Trong cuộc gặp 2+2 (giữa các bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao) của Nhật Bản và Mỹ ở Washington, hai bên đã đưa việc duy trì an ninh đường biển và tăng cường quan hệ với ASEAN, Australia và Ấn Độ vào các mục tiêu chiến lược chung. 

Tất cả điều này có nghĩa là Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng “tiến thoái lưỡng nan” ở Biển Đông. Càng tìm cách thống trị tuyến đường biển quốc tế huyết mạch này, Trung Quốc càng vấp phải nhiều sự thù địch. Để tránh làm tình hình trở nên tồi tệ thêm, Trung Quốc cần phải thay đổi các tuyên bố chủ quyền đường 9 đoạn sao cho phù hợp với UNCLOS (và Mỹ cũng cần nhanh chóng gia nhập UNCLOS). Chừng nào Trung Quốc còn tiếp tục cách hành xử quyết đoán, các nước láng giềng trên biển của Trung Quốc sẽ tăng cường hợp tác chiến lược với Mỹ, Ấn Độ, Australia và Nhật Bản để thiết lập một hệ thống chiến tranh chống tàu ngầm trong khu vực. 

Tuy nhiên, các quốc gia khác trong khu vực cũng cần tìm kiếm hợp tác. Trong chừng mực có thể, các nước này cần theo đuổi việc hợp tác khai thác các vùng biển tranh chấp và nguy cơ cướp biển ngày càng gia tăng ở Biển Đông cho thấy một lĩnh vực nữa để các quốc gia có thể phối hợp với nhau. Trong khi đó, các nước trong khu vực cần tiếp tục đối thoại với Trung Quốc về an ninh trên biển tại các diễn đàn như Diễn đàn Khu vực ASEAN và Hội nghị Cấp cao Đông Á. 

Tuy không mấy dễ dàng, nhưng việc xây dựng được một bộ quy tắc ứng xử sẽ là cơ hội tốt nhất để tránh xảy ra  xung đột vũ trang. 

Minh Bích (tổng hợp)
http://baodatviet.vn/Home/thegioi/Ly-do-Trung-Quoc-muon-doc-chiem-Bien-Dong/20126/218657.datviet

16.6.12

Đông Á và chiến lược "hai gọng kiềm" của Ấn Độ

Cuộc tập trận hải quân JIMEX 12 giữa Ấn Độ với Nhật Bản tại tỉnh Kanagawa (Nhật Bản) từ ngày 9/6 và cuộc tập trận lặng lẽ hơn với Hàn Quốc tại Busan (Hàn Quốc) hơn một tuần trước đó đã đánh dấu những bước đi mới trong quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Á.

Những động thái thắt chặt quan hệ quốc phòng liên khu vực đã mở ra nhiều sự lựa chọn hơn cho các cường quốc ở khu vực Đông Bắc Á vốn đang chịu ảnh hưởng rất lớn từ Mỹ và áp lực từ những tranh chấp song phương với Trung Quốc.

Từ "gọng kiềm lớn" tại Đông Bắc Á...

Mật độ xuất hiện ngày càng tăng của Ấn Độ ở Đông Bắc Á được đánh giá như một diễn biến tích cực, góp phần giải tỏa sức ép đang ngày càng tăng từ các điểm nóng về xung đột lãnh thổ, xung đột ý thức hệ trong khu vực này. Khi tính chủ động về quan hệ quốc phòng của Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn đang bị bó buộc trong các khuôn khổ đồng minh chiến lược với Mỹ và sự cạnh tranh từ Trung Quốc, thì Ấn Độ nổi lên như một giải pháp kịp thời mang tính tối ưu.

Một điểm đồng nhất cơ bản góp phần thúc đẩy quan hệ giữa ba quốc gia này chính là tư duy phát triển hài hòa, gắn kết lợi ích của mỗi quốc gia với lợi ích phát triển chung của khu vực. Tư duy đó được thể hiện trong học thuyết Hashimoto (1997) - phát triển từ học thuyết Fukuda (1977) của Nhật Bản hướng quốc gia này đến việc xây dựng lòng tin, chung sống hòa bình vì sự thịnh vượng chung của khu vực. Tư duy này cũng là nội dung chính trong chiến lược ngoại giao dài hạn nhằm xây dựng một mạng lưới Châu Á mới (2008) của Hàn Quốc. Trong khi, đối với Ấn Độ, tư duy "bất bạo động", chung sống hòa bình cùng phát triển đã từ lâu trở thành truyền thống của cường quốc này. Tư duy đó được hiện thực hóa ngay từ khi giành độc lập năm 1947 dưới sự lãnh đạo của thánh Mahatma Gandhi, được phát triển bởi học thuyết Gujral (1997), nhất quán trong hoạt động đối ngoại của tất cả các nguyên thủ Ấn Độ nhằm tăng cường lòng tin trong hợp tác Nam Á nói riêng và thế giới nói chung.

Thêm vào đó, Nhật Bản, Ấn Độ và Hàn Quốc lần lượt là những nền kinh tế đứng đầu trong khu vực Châu Á, chỉ sau Trung Quốc, nên cả ba quốc gia này đều có nhu cầu hợp tác lẫn nhau để mở rộng phạm vi ảnh hưởng và tăng cường vị thế bản thân trên trường quốc tế, cũng như thúc đẩy quan hệ mậu dịch để tăng cường sức phát triển của ba nền kinh tế lớn. Sức cạnh tranh mạnh mẽ và sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng là mẫu số chung góp phần gắn kết ba cường quốc này với nhau.

Nhận thức được điều đó, Ấn Độ chủ động thúc đẩy tăng cường quan hệ với hai cường quốc này bằng những hoạt động ngoại giao cụ thể. Dựa trên tinh thần Bản tuyên bố đối tác Ấn - Nhật trong kỷ nguyên Châu Á mới (04/2005), hai nước đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2006 và ký kết Tuyên bố chung về Hợp tác An ninh (10/2008) như một sự công nhận nhằm khẳng định vai trò của Ấn Độ đối với an ninh đường biển của Nhật Bản. Trong quan hệ Ấn - Hàn, mối quan hệ "đối tác hợp tác kinh tế lâu dài cho hòa bình và thịnh vượng (CEPA)" (10/2004) cũng được nâng lên tầm đối tác chiến lược vào tháng 1/2010. Từ tháng 03/2007, Ấn Độ và Hàn Quốc đều đang tăng cường hợp tác trên lĩnh vực công nghiệp quốc phòng và hướng đến quan hệ liên minh - quan hệ cấp cao nhất giữa hai quốc gia.

Với những bước đi nhanh gọn, thực tế, Ấn Độ đã sớm khẳng định được sự cần thiết của mình trong khu vực Đông Bắc Á, hình thành "gọng kiềm" thứ nhất sát sườn "người khổng lồ" Trung Quốc - nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới hiện nay.

....đến "gọng kìềm nhỏ" tại Đông Nam Á

Được công bố từ năm 1993, chính sách Hướng Đông (Look East Policy) của Ấn Độ bao gồm 2 giai đoạn: giai đoạn 1 (1993-2003) tập trung trọng điểm vào Đông Nam Á, tạo nền tảng bền vững cho giai đoạn 2 (từ 2003) phát triển các mối quan hệ ở Đông Nam Á vào chiều sâu, từ đó thúc đẩy hợp tác Đông Bắc Á. Trong 10 năm đầu tư tập trung vào Đông Nam Á, hiện nay Ấn Độ đã là thành viên chủ chốt trong các cơ chế hợp tác đa phương ở khu vực này như Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), Hợp tác cấp cao Đông Á mở rộng (EAS), có cơ chế đối thoại chiến lược ASEAN - Ấn Độ. Với quan hệ song phương, Ấn Độ đã thiết lập được nhiều mối quan hệ mang tính chiến lược trong khu vực như Indonesia (2005), Việt Nam (2007), Thái Lan (2012).

Đồng thời, Ấn Độ cũng tăng cường các hoạt động hợp tác quốc phòng thông qua việc hỗ trợ công nghệ, huấn luyện sĩ quan song phương và tổ chức tập trận đa phương. Gần đây nhất là cuộc tập trận Milan được tổ chức hai năm một lần trên vịnh Bengal (1 - 6/2/2012) có sự tham gia của 7 quốc gia Đông Nam Á là Brunei, Philippin, Myanmar, Thái Lan, Indonesa, Singapore, Malaysia. Ấn Độ còn chủ động xây dựng các thể chế liên khu vực như Sáng kiến vùng vịnh Bengal về hợp tác kinh tế và kỹ thuật đa khu vực - (BIMSTEC), Tổ chức Hợp tác khu vực vành đai Ấn Độ Dương (IOR-ARC), Kế hoạch Colombo, Hợp tác sông Mêkong - Sông Hằng (MGC)... nhằm làm vành đai hỗ trợ làm cầu nối cho quan hệ với các quốc gia Đông Nam Á. Là địa bàn chịu ảnh hưởng lớn nhất từ Trung Quốc, "gọng kiềm" này vì thế được Ấn Độ gia cố rất kỹ lưỡng.

Mối quan hệ giữa những "người khổng lồ"

Sau 20 năm thực hiện, Ấn Độ đang nỗ lực hoàn thành Chính sách Hướng Đông của mình, tạo nên "hai gọng kiềm" từ Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Mặc dù trong tuyên bố của chính sách này không nhằm đối phó với "mối lo sợ về Trung Quốc", nhưng đây là quá trình đầu tư dài hạn, nhất quán và thể hiện tầm nhìn mang tính địa - chiến lược có lợi cho Ấn Độ. Thế gọng kiềm này tác động trực tiếp lên hai khu vực ảnh hưởng truyền thống của Trung Quốc, như một động thái để đối phó với quá trình Trung Quốc thay thế Mỹ hợp tác quân sự với Pakistan - tác nhân kiềm hãm Ấn Độ ở khu vực Nam Á, tạo nên thế lưỡng nan an ninh giữa ba quốc gia có vũ khí hạt nhân.

Điều này cũng giải thích vì sao Trung Quốc đang thi hành chính sách hai mặt không chỉ với Mỹ, mà còn tìm cách tranh thủ Ấn Độ trong mối quan hệ đối tác chiến lược vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Trung Quốc đang cần giảm dần sự can thiệp của các đối thủ trong việc xây dựng chiến lược Chuỗi Ngọc trai (String of Pearls) nhằm chi phối tuyến vận tải chở dầu từ Biển Đông sang Ấn Độ Dương - một ưu tiên chiến lược dài hạn đang được Trung Quốc thực thi. Thậm chí hải quân Trung Quốc còn tạo ra các sự kiện nhằm "dằn mặt" những chuyến thăm hợp tác hữu nghị của lực lượng hải quân Ấn Độ đến các quốc gia Đông Á còn lại. Tuy nhiên, với một thế trận lòng tin được xây dựng chặt chẽ, phản ứng của Ấn Độ trước thái độ khiêu khích đều là những động thái mang tính ôn hòa. Trong một diễn biến mới nhất, Ấn Độ đã cử 4 tàu hải quân đến thăm thành phố Thượng Hải, Trung Quốc từ ngày 13-17/6 nhằm tăng cường an ninh hàng hải tại các tuyến đường biển nối liền hai khu vực.

Trái lại với thái độ hồ nghi của Trung Quốc, những bước đi của Ấn Độ tại khu vực Đông Á lại nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của Mỹ. Trong chuyến công du mới nhất của Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta đến Ấn Độ trong tháng này, Mỹ đã tuyên bố ủng hộ Ấn Độ như là đối tác chiến lược chủ chốt của Mỹ ở Châu Á. Quan điểm này là bước triển khai của chính sách do Ngoại trưởng Hillary Clinton phát biểu vào tháng 5/2007, khẳng định sự ủng hộ của Mỹ dành cho Ấn Độ với tư cách một cường quốc lãnh đạo Châu Á. Washington rõ ràng đã bộc lộ rõ mưu đồ "cài răng lược" - xây dựng các "biểu tượng đồng minh" của Mỹ xen kẽ nhằm hạn chế sự trỗi dậy của Trung Quốc - với sự hiện diện rõ ràng của "tứ giác kiềm tỏa" là Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, một phần của ASEAN và nay có thêm Ấn Độ. Chính sách Hướng Đông của New Delhi trùng với thế "cài răng lược" của Mỹ ở khu vực Đông Á và xa hơn là Châu Úc, nên cũng dễ hiểu khi Ấn Độ nhận được sự hậu thuẫn toàn lực của Mỹ.

Nhìn chung, với hai "thế gọng kiềm" được tạo ra từ chính sách Hướng Đông, Ấn Độ đang tiến những bước vững chắc trong việc gia tăng ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế, đặc biệt là trong thế so sánh tương quan với Trung Quốc. Tuy thế trận của mỗi cường quốc đều nhằm vào những mục đích khác nhau, nhưng với sự xuất hiện của Ấn Độ - một cường quốc có tiềm lực mạnh nhưng lại cạnh tranh ôn hòa (ngoại trừ mối quan hệ Ấn Độ - Pakistan), cục diện Đông Á nói riêng và quan hệ quốc tế nói chung có thể đạt được những tiến bộ nhất định trong quá trình giải tỏa các điểm nóng. Với xu thế hợp tác và hội nhập nổi trội và quá trình phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ, cuộc đấu trí giữa những "người khổng lồ" hoàn toàn có cơ sở để kết thúc theo tư duy "bất bạo động" của người Ấn.

Lục Minh Tuấn

(Khoa Quan Hệ Quốc Tế, ĐHKHXH&NV TPHCM)

31.5.12

Chạy đua vũ trang điên cuồng ở châu Á

Tác giả: Conn Hallinan
Người dịch: Dương Lệ Chi
29-05-2012
Châu Á hiện đang chạy đua vũ trang chưa từng có, đây không chỉ là cuộc đua căng thẳng dữ dội trong khu vực mà còn là sự cạnh tranh của các nước châu Á với những nỗ lực nhằm giải quyết sự chênh lệch giữa đói nghèo và phát triển kinh tế. Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo – được tính bằng hệ số Gini, đo sự bất bình đẳng – đã tăng từ 39% đến 46% ở Trung Quốc, Ấn Độ, và Indonesia. Mặc dù các gia đình giàu vẫn tiếp tục có được nhiều của cải hơn và nhận được phần lớn hơn trong chiếc bánh kinh tế, “Trẻ em sinh ra trong những gia đình nghèo có khả năng tử vong khi còn là trẻ sơ sinh có thể lớn hơn gấp 10 lần” so với những em được sinh ra trong các gia đình giàu có, theo Changyong Rhee, trưởng kinh tế gia thuộc Ngân hàng Phát triển Châu Á.
          Súng đạn thay cho thực phẩm
Xu hướng bất bình đẳng này đặc biệt sâu sắc ở Ấn Độ, nơi tuổi thọ trung bình thì thấp và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thì cao, nền giáo dục chắp vá, mù chữ phổ biến rộng rãi, cho dù tình trạng của đất nước là nền kinh tế lớn thứ ba ở châu Á, sau Trung Quốc và Nhật Bản. Theo một tổ chức từ thiện độc lập, Quỹ Naandi, khoảng 42% trẻ em Ấn Độ bị suy dinh dưỡng. Bangladesh, một đất nước nghèo khó hơn, nhưng ở tất cả các lĩnh vực này thì tốt hơn nhiều.
Ấn Độ thử tên lửa đạn đạo: dấu hiệu chạy đua vũ trang châu Á?
Năm ngoái, Ấn Độ là nước mua vũ khí hàng đầu trên thế giới, đã mua máy bay chiến đấu hiệu suất cao của Pháp, với số hàng trị giá 20 tỷ đô la. Ấn Độ cũng đang chế tạo loại tên lửa đạn đạo tầm xa có khả năng mang nhiều đầu đạn hạt nhân, cũng như mua tàu ngầm và tàu chạy trên mặt nước. Ngân sách quân sự của Ấn gia tăng 17 % trong năm nay, lên tới 42 tỷ đô la.

“Thật là nực cười. Chúng ta đang chạy đua vũ trang vô nghĩa, bằng chi phí của những người nghèo”, ông Praful Bidwai, thuộc Liên minh Giải trừ Vũ khí Hạt nhân và Hòa Bình đã nói với báo The New York Times.

Trung Quốc cũng đang gia tăng việc mua vũ khí, gồm tăng cường hải quân, chế tạo một máy bay tàng hình thế hệ mới, và chế tạo một tên lửa đạn đạo có khả năng vô hiệu hóa tàu sân bay Mỹ đến gần bờ biển của họ. Ngân sách quân sự của Bắc Kinh gia tăng với tốc độ khoảng 12% một năm, khoảng 106,41 tỷ đô la, lớn thứ hai trên hành tinh. Tổng ngân sách dành cho an ninh quốc gia của Mỹ – không tính các cuộc chiến tranh khác mà Washington đang tham gia, hơn 800 tỷ đô la, mặc dù một số người ước tính ngân sách này nhiều hơn 1.000 tỷ đô la.

Mặc dù Trung Quốc có những bước tiến lớn trong việc xóa đói giảm nghèo, nhưng khoảng 250 triệu người Trung Quốc chính thức được coi là nghèo, và nền kinh tế nóng hổi của đất nước trước đây thì đang nguội. “Các số liệu chi tiêu và sản lượng trong tháng 4 chưa thấy hy vọng rằng nền kinh tế của Trung Quốc đang chạm đáy”, Mark Williams, trưởng kinh tế gia châu Á tại Capital Economics, nói với báo Financial Times.

Điều này cũng đúng đối với hầu hết các nước ở châu Á. Ví dụ, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Ấn Độ đã giảm từ 9% xuống còn 6,1% trong hai năm rưỡi qua.
          Căng thẳng trong khu vực
Căng thẳng giữa Trung Quốc và các nước khác trong khu vực làm gia tăng một cuộc chạy đua vũ trang trong vùng. Đài Loan đang mua bốn tàu khu trục có tên lửa dẫn đường loại Perry, do Mỹ sản xuất, và Nhật Bản đã chuyển phần lớn lực lượng quân sự của họ từ các hòn đảo phía bắc sang phía nam, đối diện với Trung Quốc.

Philippines đang bỏ ra gần 1 tỉ đô la để mua máy bay và radar mới, và gần đây tiến hành tập trận chung với Hoa Kỳ. Nam Triều Tiên vừa thử nghiệm thành công một tên lửa hành trình tầm xa. Washington đang phục hồi quan hệ quân sự với Indonesia do đảo quốc này kiểm soát các đường biển chiến lược mà hầu hết việc vận chuyển thương mại và cung cấp năng lượng trong khu vực đi ngang qua đó.
Tên lửa tầm ngắn hiện đại EXTRA của Israel 
Úc cũng đang tái định hướng quốc phòng về phía đối mặt với Trung Quốc và ông Stephen Smith, Bộ trưởng Quốc phòng Úc đã kêu gọi Ấn Độ “giữ vai trò mà họ có thể và vai trò mà họ nên giữ, như một cường quốc đang trỗi dậy đối với an ninh và ổn định trong khu vực”.

Nhưng “vai trò” đó không có gì là rõ ràng, và một số người đã xem tuyên bố của ông Smith là một nỗ lực để kéo New Delhi vào một mặt trận thống nhất chống lại Bắc Kinh. Thử nghiệm tên lửa đạn đạo hạt nhân Agni V gần đây của Ấn Độ phần lớn được xem như nhắm vào Trung Quốc.

Ấn Độ và Trung Quốc đã đánh nhau trong một cuộc chiến biên giới ngắn ngủi nhưng kinh hoàng hồi năm 1962, và Ấn Độ tuyên bố Trung Quốc hiện đang chiếm khoảng 15.000 dặm vuông lãnh thổ của Ấn Độ. Ngược lại, Trung Quốc, tuyên bố gần như toàn bộ 40.000 dặm vuông của bang Arunachal Pradesh, Ấn Độ là của họ. Mặc dù ông Manmohan Singh, Thủ tướng Ấn Độ, nói rằng “nói chung, quan hệ của chúng tôi [với Trung Quốc] là khá tốt”, nhưng ông cũng thừa nhận “vấn đề biên giới là một vấn đề lâu dài”.

Ấn Độ và Trung Quốc cũng đã cãi nhau ngắn ngủi hồi năm ngoái khi một tàu chiến Trung Quốc yêu cầu tàu tấn công đổ bộ của Ấn Độ Airavat nhận diện chính họ, ngay sau khi con tàu này rời khỏi cảng ở Hà Nội, Việt Nam. Không có gì xảy ra trong vụ việc này, nhưng kể từ đó, Tổng thống Ấn Độ Pratibha Patil đã nhấn mạnh sự cần thiết về “an ninh hàng hải” và “bảo vệ bờ biển của chúng tôi, các ‘tuyến đường giao thông trên biển’, và các khu vực phát triển ngoài khơi”.

Lập trường mạnh mẽ của Trung Quốc ở biển Đông đã gây căng thẳng với Việt Nam, Đài Loan, Brunei, và Malaysia. Một sự đối đầu giữa một tàu chiến của Philippines và nhiều tàu giám sát của Trung Quốc tại bãi cạn Scarborough hồi tháng trước vẫn còn đang được kềm chế ở mức độ thấp.
Chiến đấu cơ đa năng tàng hình thế hệ 5 T-50 PAK FA của Nga 
Thái độ của Trung Quốc quyết đoán hơn trong khu vực phần lớn bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng ở eo biển Đài Loan năm 1995-1996, khi hai tàu sân bay Hoa Kỳ làm bẽ mặt Bắc Kinh trong vùng biển của họ. Rủi ro để có thể xảy ra chiến tranh trong cuộc khủng hoảng này thì không lớn – Trung Quốc không có khả năng xâm lược Đài Loan – nhưng chính phủ Clinton đã có cơ hội để chứng minh sức mạnh hải quân của Mỹ. Trung Quốc gia tăng sức mạnh hải quân kể từ sự kiện đó.

Sự “chuyển hướng” của chính phủ Obama về phía châu Á, gồm việc gia tăng quân sự ở đảo Wake và đảo Guam, triển khai 2.500 lính thủy quân lục chiến ở Úc, đã gia tăng căng thẳng trong khu vực, và việc xử lý vấn đề biển Đông một cách cứng rắn của Bắc Kinh, đã mở ra cho Washington cánh cửa để bước vào tranh chấp.

Trung Quốc có cảm thấy khó chịu về vùng biển nhà của họ – người ta có thể hiểu điều đó, đưa ra lịch sử 100 năm qua – nhưng không có bằng chứng là họ bành trướng. Một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nói hồi tháng 2, “Không có nước nào, kể cả Trung Quốc, đã tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ biển Hoa Nam”. Bắc Kinh dường như chưa sẵn sàng sử dụng lực lượng quân sự. Bắc Kinh đã học được vài bài học từ cuộc xâm lược Việt Nam thảm khốc năm 1979.

Mặt khác, Bắc Kinh rất lo ngại về những nước kiểm soát vùng biển trong khu vực, một phần là vì khoảng 80% nguồn cung cấp năng lượng của Trung Quốc đi qua điểm mấu chốt trên biển, do Hoa Kỳ và các đồng minh của họ kiểm soát.
          Cảnh báo của Eisenhower
Sự căng thẳng ở châu Á là có thật, nếu không phải nói là gay gắt và sâu xa như các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ mô tả. Trung Quốc và Ấn Độ thật sự có “vấn đề” về biên giới nhưng Trung Quốc cũng coi chính họ và New Delhi “không phải là đối thủ cạnh tranh mà là đối tác”, và thậm chí đã đề nghị làm liên minh để giữ không cho “các cường quốc bên ngoài” – được hiểu là: Hoa Kỳ và NATO – can thiệp vào khu vực.

Câu hỏi thực sự là, liệu châu Á có thể lao vào một cuộc chạy đua vũ trang mà không làm gia tăng hố sâu ngăn cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng gia tăng và với kết quả là sự bất ổn chính trị có khả năng theo sau? “Sự bất bình đẳng ngày càng lớn sẽ đe dọa sự tăng trưởng bền vững ở châu Á. Một quốc gia bị chia rẽ và bất bình đẳng không thể là một nước thịnh vượng”, ông Rhee, kinh tế gia thuộc Ngân hàng Phát triển Châu Á, nói.

Hơn nửa thế kỷ trước, Tổng thống và là Tổng Tư lệnh tối cao Dwight Eisenhower đã lưu ý rằng: “Mỗi khẩu súng được chế tạo, mỗi tàu chiến được hạ thủy, mỗi tên lửa được phóng ra, đều có nghĩa là… một hành vi trộm cắp từ những người đói khổ mà không có ăn, từ những người bị lạnh mà không mặc… cuộc sống hoàn toàn không phải là như thế… đó chính là đem nhân loại lên treo trên cây thánh giá”.

Người Mỹ đã bỏ qua lời cảnh báo của tổng thống Eisenhower. Các nước châu Á sẽ làm tốt nếu chú ý.
Nguồn: FPIF/ Huffington Post
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012

29.5.12

Trung Quốc bất lực nhìn tầu chiến Nhật Bản tung hoành Biển Đông

Các lực lượng bên ngoài tham gia giải quyết những tranh chấp trên Biển Đông đang dần trở thành thực tế bất chấp sự phản đối quyết liệt của Trung Quốc. Mới đây đến lượt Nhật Bản kiên quyết trở thành kẻ thứ 3 có mặt tại biển Đông...
Gần đây những động thái can thiệp tình hình biển Đông của Nhật Bản ngày càng mạnh lên. Điển hình nhất là việc ngày 28/5/2012, Nhật đã điều 3 tầu chiến hiện đại của mình “ghé thăm” Philippines, nhằm hợp tác nâng cao khả năng bảo vệ hàng hải và lãnh thổ cho quốc gia này.
Trước đó, Tokyo và Manila đã từng đưa ra Tuyên bố chung về tăng cường hợp tác trong vấn đề biển Đông. Theo đó cả 2 quốc gia đều tái khẳng định biển Đông là vùng biển quan trọng nối liền thế giới với châu Á – Thái Bình Dương, việc đảm bảo an ninh đường biển ở biển Đông là lợi ích chung của hai nước.
ba tàu hải quân của Nhật ghé thăm Philippines nhằm hợp tác nâng cao khả năng bảo vệ hàng hải và lãnh thổ cho Philippines.
JS Kashima (TV-3508), một trong ba tàu hải quân của Nhật tới Philippines
Tàu JS Kashima nặng 4.050 tấn, dài 143 m, rộng 18 m.
Tàu được trang bị pháo 76 mm, 23 ống phóng ngư lôi với 360 thủy thủ
JS Kashima được đánh giá là một trong những chiến hạm hàng đầu của lực lượng phòng vệ bờ biển Nhật Bản
JS Kashima được đánh giá cao cả trong hoạt động chống ngầm và chiến đấu trên mặt biển cùng.khả năng độc lập tác chiến hiệu quả
Chiếc tàu thứ hai của Nhật tới Philippines là JS Shimayuki.
Tàu này có tải trọng 3.050 tấn, dài 130 m, rộng 13,6 m.
JS Shimayuki được trang bị pháo 76 mm, hai hệ thống súng máy tầm ngắn loại 20 mmm, một dàn phóng tên lửa hạm đối hạm, một dàn 23 ống phóng ngư lôi chống tàu ngầm với thủy thủ đoàn 200 người.
Mặc dù có tải trọng kích thước không bằng JS Kashima, nhưng JS Shimayuki được đánh giá cao ở tính năng cơ động, cũng như hệ thống vũ khí mạnh
Trong biên chế của JS Shimayuki còn có máy bay lên thẳng làm nhiệm vụ theo dõi, tìm kiếm và kết hợp chống ngầm
Chiếc tàu thứ ba của Nhật tới Philippines là JS Shimayuki.
JS Shimayuki có kích thước tương tự JS Matsuyuki, tầu nặng 3.050 tấn, dài 130 m, rộng 13,6 m.
Tàu được trang bị pháo 76 mm, hai hệ thống súng máy tầm ngắn loại 20 mmm, một dàn phóng tên lửa hạm đối hạm, một dàn 23 ống phóng ngư lôi chống tàu ngầm với thủy thủ đoàn 200 người
Mặc dù không được trang bị nhiều loại vũ khí như người anh em JS Matsuyuki, nhưng JS Shimayuki được đánh giá cao ở khả năng tìm diệt mục tiêu ngầm, được trang bị 23 ống phóng ngư lôi, JS Shimayuki sẽ dễ dàng "làm gỏi" những mục tiêu ngầm khi phát hiện ra chúng
Việc Nhật bất ngờ đưa tầu chiến hạng nặng tới biển Đông, chứng tỏ Nhật Bản sẽ không bao giờ từ bỏ ý định can dự vào vấn đề biển Đông, phối hợp với Mỹ, kiềm chế Trung Quốc, nâng cao giá trị của bản thân, lôi kéo Asean...
Phunutoday

26.5.12

Trung Quốc có bị Hoa Kỳ và đồng minh bao vây?

Thành lập bộ phận châu Á của hệ thống phòng thủ tên lửa toàn cầu là mục tiêu chính của cuộc tập trận hải quân chung của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Australia. Phải chăng đây là 1 động thái mới của Mỹ để kiềm chế và chống lại sự ngày càng lớn mạnh của quân đội Trung Quốc ở Châu Á - Thái Bình Dương?
Hoa Kỳ dựng liên minh hải quân chống Trung Quốc 
Các chuyên gia Nga đã đưa ra ý kiến như vậy sau khi có tin về việc ngày 6/ 6/2012 sẽ bắt đầu cuộc trập trận chung quy mô lớn ở vùng biển phía đông đảo Kyushu.Tham gia cuộc tập trận này sẽ có các tàu chiến, tàu ngầm và máy bay tuần tra chống tàu ngầm của ba nước.
Đây là cuộc tập trận thứ năm kể từ năm 2007 của lực lượng hải quân Hoa Kỳ, Nhật Bản và Australia. Tuy nhiên, đây là cuộc tập trận ba bên đầu tiên sau khi Lầu Năm Góc bắt đầu thành lập hệ thống phòng thủ tên lửa châu Á. Về mặt chính thức, hoạt động này đã bắt đầu vào tháng 4 năm nay.
Theo kế hoạch, các bộ phận tiền tiêu của hệ thống NMD sẽ bố trí ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia. Nói về việc này, chuyên gia Igor Korotchenko, thành viên Hội đồng Cộng đồng thuộc Bộ Quốc phòng Nga, tổng biên tập tạp chí ‘Quốc phòng’, nói: ‘Cuộc tập trận có mục đích chứng minh khả năng mới trong lĩnh vực phòng thủ tên lửa của lực lượng hải quân ba nước.
Hoa Kỳ đang tích cực phát triển bộ phận của hệ thống phòng thủ tên lửa ở Châu Á 
Hoa Kỳ đang tích cực phát triển bộ phận châu Á của hệ thống NMD. Washington không chỉ hy vọng vào sự hỗ trợ quân sự của các đồng minh, mà còn muốn để các nước này, đặc biệt Nhật Bản, trực tiếp tham gia qúa trình phát triển hệ thống chống tên lửa ‘Aegis’.
Các chuyên gia Nga cho rằng, ở mức độ nhất định, cuộc tập trận mang tính chất chống Trung Quốc, nhằm làm giảm khả năng của Trung Quốc trong lĩnh vực kiềm chế hạt nhân chiến lược’.
Cuối năm ngoái, Mỹ đã thông qua chiến lược an ninh quốc gia mới. Chuyên gia Konstantin Sivkov, Phó Chủ tịch thứ nhất của Học viện các vấn đề địa chính trị, nhắc nhở rằng, theo chiến lược an ninh mới của Mỹ, Trung Quốc là đối thủ địa chính trị chính của họ.
Và cuộc tập trận sắp tới là một cơ hội tốt để phô trương sức mạnh của Mỹ và đồng minh. Chuyên gia Sivkov nói tiếp: ‘Hệ thống phòng thủ tên lửa mà Mỹ đang thành lập ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương định hướng chống Trung Quốc. Cuộc tập trận hải quân sắp tới là cần thiết để hoàn thiện cơ chế sử dụng vũ lực và các phương tiện phòng thủ tên lửa’.
Bộ phận châu Á của hệ thống phòng thủ tên lửa toàn cầu có đặc điểm như sau: các hệ thống radar và các thành phần thiết bị đánh chặn tên lửa đạn đạo về chủ yếu bố trí trên tàu chiến. Trung Quốc đang tích cực gia tăng lực lượng hải quân của mình.
Theo Hoa Kỳ, điều đó tạo nguy cơ đe dọa sự hiện diện của họ trong khu vực. Chắc là, cuộc tập trận này được thực hiện để hoàn thiện cơ chế tương tác với các đồng minh trong khu vực trong trường hợp cấp tính đối đầu quân sự với Trung Quốc’.
Hình ảnh cuộc tập trận Trung - Nga cuối tháng 4 năm nay 
Cuối tháng Tư, Hải quân của Trung Quốc và Nga đã tổ chức cuộc tập trận chung lớn nhất trong những năm gần đây ở vùng biển Hoàng Hải. Hai bên đã tập luyện các hoạt động chung trên không, trên biển và dưới nước trong trường hợp phải giáng trả nguy cơ khủng bố.
Cuộc diễn tập đã được tổ chức trong bối cảnh Mỹ đang thành lập hệ thống NMD ở châu Á, vì thế nhiều chuyên gia coi đó là hoạt động tập thể nhằm củng cố an ninh chung.
Nói chung, châu Á giữ vị trí hàng đầu trên thế giới về số lượng và quy mô các cuộc tập trận hải quân chung. Thành phần các nước tham gia có thể thay đổi. Chẳng hạn, ngày 28 /5 sẽ bắt đầu cuộc tập trận chung đầu tiên của Hải quân Australia và Hàn Quốc. Hoạt động này sẽ được tổ chức ở vùng biển phía Nam của bán đảo Triều Tiên, gần đảo Jeju của Hàn Quốc.
Mỹ dựng lên liên minh quân sự của mình ở Châu Á - Thái Bình Dương trước sự lo ngại sức mạnh của quân đội Trung Quốc 
Mục đích chính của cuộc tập trận là tập luyện phát hiện và theo dõi tàu ngầm của đối phương và sử dụng ngư lôi. Tham gia cuộc tập trận sẽ có gần mười tàu chiến và tàu ngầm, kể cả tàu khu trục trang bị hệ thống đa năng ‘Aegis’ - một trong những thành phần chính của hệ thống phòng thủ tên lửa Mỹ ở châu Á.
  • Theo Igor Korotchenko, Konstantin Sivkov, Tiếng nói nước Nga (GDVN)


30.4.12

Đối mặt với Trung Quốc, Nhật Bản tăng cường phòng thủ đảo

Phía sau quan hệ có vẻ êm đềm, Nhật Bản ngày càng hoài nghi tham vọng hàng hải của Trung Quốc và tăng cường phòng thủ các đảo ở xa.

Quân đội Nhật Bản đã tăng cường sự hiện diện của họ trên bốn đảo phía tây: Ishigaki, Yonaguni, Miyako và Iriomotejima. Trong ít tuần qua, Nhật Bản đã nỗ lực khẳng định chủ quyền với gần 100 đảo khác, phần lớn không có người ở, hình thành cơ sở của vùng đặc quyền kinh tế theo Luật Biển quốc tế.

Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đưa ra tuyên bố chủ quyền với một số đảo trên. Nước này trở nên quả quyết hơn với lực lượng hải quân ngày càng phát triển và hiện đại.
Nhật ngày càng hoài nghi về các tham vọng hàng hải của Bắc Kinh và tăng cường phòng thủ các đảo ở xa. Ảnh: Getty Images

Tranh cãi gay gắt và kéo dài nhất trong tranh chấp lãnh thổ giữa Tokyo và Bắc Kinh là quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) nằm dưới sự quản lý của Nhật nhưng Trung Quốc khẳng định chủ quyền.

Cuộc tranh chấp này khá "im hơi lặng tiếng" kể từ sau vụ khủng hoảng ngoại giao khi lực lượng phòng vệ bờ biển Nhật Bản bắt giữ một thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc khi cho rằng đã đánh bắt trái phép và cố tình làm hư hại tàu của họ ở ngoài khơi Senkaku/Điếu Ngư.

Tuy nhiên, hai tuần qua, căng thẳng lại gia tăng trở lại sau khi một doanh nhân giàu có Trung Quốc đề nghị mua lại đảo với giá 430 triệu USD từ một gia đình Nhật sở hữu nó.

Điều này đã làm dấy lên sự giận dữ của Thị trưởng Tokyo Shintaro Ishihara - người đã tuyên bố chính quyền thành phố muốn mua lại đảo với giá 500 triệu USD. Ông Ishihara, 79 tuổi, đã bắt đầu thương lượng mua lại Uotsurijima, Kitakojima và Minamikojima - các đảo thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư nằm cách đảo Ishigaki của Nhật Bản khoảng 140 km về phía bắc.

Kyodo News cho biết ông Ishihara dự tính sẽ sử dụng ngân sách của thành phố để mua lại các đảo hiện thuộc sở hữu một công dân Nhật. Kiểm soát khu vực biển ở đây đồng nghĩa với việc kiểm soát các mỏ dầu và khí đốt dưới đáy biển. Ông Ishihara dự kiến có thể đạt được thỏa thuận chính thức với chủ các đảo này vào cuối tháng 12 năm nay sau khi nhận được sự phê chuẩn của hội đồng dân biểu thành phố Tokyo. 

Các tranh cãi đã gây rắc rối cho chính phủ của Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) dẫn đầu là Thủ tướng Yoshihiko Noda, người bị ông Ishihara cáo buộc không đủ cứng rắn với Bắc Kinh xung quanh vấn đề tranh chấp lãnh thổ và thể hiện sự nhân nhượng có thể khuyến khích Trung Quốc dùng vũ lực với các đảo tranh chấp. Để làm chệch hướng chỉ trích, người phụ trách chính sách của DPJ cũng là cựu ngoại trưởng - nổi tiếng vì sự thận trọng về các tham vọng của Trung Quốc - ông Seiji Maehara, nói, chính phủ nên cân nhắc việc mua lại Senkakus từ gia đình Kurihara sở hữu chúng. 

Từ khi lên nắm quyền năm 2009, chính phủ DPJ đã nỗ lực làm dịu các tuyên bố cứng rắn giữa Bắc Kinh và Tokyo.

Nhưng đằng sau những nụ cười và các cuộc gặp có vẻ hoà hợp giữa các nhà lãnh đạo, chính phủ Nhật ngày càng nản lòng với các hành động từ Trung Quốc. Với Nhật Bản, một vấn đề tranh chấp còn quan trọng hơn cả quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, đó là mỏ khí Shirakaba/Xuân Hiểu nằm ở đường trung tuyến giữa hai nước ở biển Hoa Đông.

Bắc Kinh và Tokyo đã ký một thoả thuận cùng phát triển ở khu vực trên trong năm 2008, nhưng chính phủ Trung Quốc đã trì hoãn dự án này trước và năm 2009 ngừng mọi cuộc thương thảo song phương cùng khai thác mỏ khí. 

Chính phủ của ông Noda nghi ngờ Bắc Kinh có ý định đơn phương khai thác khu mỏ. 

Mặc dù ông Ishihara chỉ trích chính phủ đang thoả hiệp với Bắc Kinh, nhưng theo giới quan sát, ông Noda là người quả quyết hơn hẳn những người tiền nhiệm. Ông khuấy động sự giận dữ từ Bắc Kinh vào tháng trước khi chính phủ Nhật tìm cách khẳng định chủ quyền bằng cách đặt tên cho 39 đảo không có người ở hoặc trước đây chưa có tên, đồng thời chỉ định khoảng 60 đảo khác là cơ sở cho vùng đặc quyền kinh tế của Nhật. 

Việc Triều Tiên phóng tên lửa tầm xa (dù thất bại) ngày 13/4 đã giúp Tokyo có thêm lý do để tăng cường hệ thống chặn tên lửa và rađa phòng thủ ở bốn hòn đảo phía tây của họ. Quân đội Nhật Bản còn thành lập đơn vị phòng không phản ứng nhanh có thể nhanh chóng triển khai tới các đảo bị đe dọa. Một đơn vị giám sát hàng hải mới cũng ra đời, với vai trò như nhóm quân sự đầu tiên chịu trách nhiệm bảo vệ các đảo không có người ở của Nhật.

Tháng 12 trước, bộ binh, hải quân và không quân Nhật đã tiến hành tập trận chung với các lực lượng Mỹ với bài tập giả thiết Nhật phải giành lại một trong các đảo ở phía nam bị xâm chiếm. 

Ứng viên sáng giá cho ghế chủ tịch cũng như lãnh đạo đảng của Trung Quốc - ông Tập Cận Bình đã cảnh báo Tokyo hành động thận trọng khi ứng xử với các vấn đề được coi là “lợi ích cốt lõi” với Trung Quốc. 

Hãng tư vấn chiến lược Oxford Analytica đã đánh giá tình hình quan hệ Trung - Nhật khá ảm đạm: “Khả năng xung đột vũ trang là có thật”. 

Thái An(Theo vancouversun/VNN)

21.4.12

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp xúc nhiều nhân vật cấp cao của Nhật


Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ tiếp xúc nhiều nhân vật cấp cao của Nhật
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp xúc nhiều nhân vật cấp cao của Nhật 
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Cấp cao Mekong – Nhật Bản lần thứ 4 tổ chức tại Tokyo từ 20 đến 21/4.

Một việc đáng chú ý tại hội nghị này là sự có mặt của Tổng thống Miến Điện Thein Sein, người muốn Nhật Bản xóa nợ sau một số cải cách gần đây.

Lãnh đạo Campuchia, Lào và Thái Lan cũng có mặt tại một sự kiện được xem là sáng kiến chủ động của Nhật nhằm tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á.

Việt Nam nói Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ phát biểu về "phương hướng hợp tác Mekong – Nhật Bản giai đoạn tới cũng như nêu các ưu tiên của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Mekong - Nhật Bản, trong đó có vấn đề quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong".

Người đứng đầu chính phủ Việt Nam cũng sẽ họp song phương với Thủ tướng Nhật Bản Noda Yoshihiko và tiếp xúc các doanh nghiệp của Nhật.

Sáng nay, ông Dũng cũng gặp cựu Thủ tướng Nhật Bản, ông Yukio Hatoyama và Liên minh Nghị sĩ hữu nghị Nhật-Việt của Đảng Dân chủ Nhật Bản.

Hồi tháng Ba, hai người đã gặp nhau ở Hà Nội mà sau đó, ông Hatoyama nói với báo Nhật rằng ông được bảo đảm Việt Nam vẫn sẽ mua hai lò phản ứng hạt nhân từ Nhật Bản.

Khả năng tham gia dự án điện hạt nhân ở Việt Nam được Tokyo quan tâm đặc biệt trong bối cảnh nhiều nước bày tỏ lo ngại sau thảm họa Fukushima.

Cùng ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng gặp một số nhân vật có vai vế, như Chủ tịch Cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (JCCI) và Chủ tịch Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC).

Thông tin chính thức nói năm ngoái, kim ngạch thương mại Việt - Nhật đạt trên 21 tỷ đôla.

Tính đến giữa tháng 12/2011, Nhật Bản có gần 1.670 dự án FDI còn hiệu lực tại Việt Nam, với tổng số vốn đầu tư đăng ký trên 23,6 tỷ đôla.

Nhật Bản cũng là nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam.

Tổng thống Thein Sein muốn Tokyo xóa nợ cho Miến Điện
Tổng thống Thein Sein muốn Tokyo xóa nợ cho Miến Điện 
Miến Điện xin xóa nợ

Trong khi đó, Tổng thống Miến Điện Thein Sein tham dự Hội nghị Cấp cao Mekong – Nhật Bản với chủ ý lớn nhất là yêu cầu Nhật Bản giúp giải quyết món nợ.

Từ 1967 đến 1987, Nhật Bản cam kết các khoản vay cho Miến Điện trị giá 403 tỉ yên Nhật.

Chính phủ Nhật từ chối bình luận về tin đồn rằng Tokyo sẽ xóa khoản nợ trị giá 300 tỷ yên.

Nhật Bản, từng chiếm đóng Miến Điện trong Thế chiến Hai, chỉ đầu tư khoảng 10 triệu đôla tại đây kể từ 2008, so với 13 tỉ đôla đầu tư của các công ty Trung Quốc.

Nhưng một số công ty Nhật nay bày tỏ quan tâm, như Honda muốn xây một nhà máy xe máy ở Miến Điện.

BBC 

20.4.12

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong mối quan hệ Việt Nhật ?


Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Quan hệ Việt - Nhật 
Trong khuôn khổ chương trình tham dự Hội nghị Cấp cao Mekong - Nhật Bản lần thứ 4 diễn ra tại Tokyo, hôm nay 20/4, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng trưởng đoàn các nước đã tham dự các nghi thức ngoại giao chào mừng của Chính phủ, Hoàng gia và giới kinh tế Nhật Bản.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các Trưởng đoàn các nước tiếp kiến Nhật hoàng
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các Trưởng đoàn các nước tiếp kiến Nhật hoàng 
Chiều 20/4, tại Hoàng cung Nhật Bản, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng Trưởng đoàn các nước Mekong: Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan đã tiếp kiến với Nhà vua Nhật Bản Akihito.
Phát biểu tại đây, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ vui mừng trước những kết quả quan trọng mà nhân dân Nhật Bản đã giành được trong nỗ lưc phục hồi, tái thiết đất nước sau thảm họa động đất, sóng thần năm 2011.
Quang cảnh lễ đón Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại sân bay Quốc tế Haneda (Tokyo).
Quang cảnh lễ đón Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại sân bay Quốc tế Haneda (Tokyo). 
Thủ tướng nhấn mạnh: Quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản phát triển hết sức tốt đẹp, nhất là từ khi quan hệ hai nước nâng lên tầm đối tác chiến lược.
Việt Nam và Nhật Bản đã nhất trí chọn năm 2013 là Năm Hữu nghị Việt - Nhật nhân dịp kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Nhà nước, Chính phủ và nhân dân Việt Nam mong được đón Nhà vua và Hoàng hậu cũng như các thành viên Hoàng gia Nhật Bản sang thăm Việt Nam….
Tối cùng ngày theo giờ địa phương, Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda mở tiệc chiêu đãi chào mừng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Trưởng đoàn các nước Mekong sang tham dự Hội nghị Cấp cao Mekong -Nhật Bản lần thứ 4.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Nhật Bản Okada Katsuya
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Nhật Bản Okada Katsuya 
Hội nghị Cấp cao Mekong -Nhật Bản lần thứ 4 sẽ chính thức khai mạc vào sáng mai (21/4) theo giờ địa phương, tại Nhà khách Chính phủ ở thủ đô Tokyo.
Diễn ra trong gần một ngày với 3 phiên họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ cùng người đứng đầu Chính phủ các nước tiểu vùng Mekong là Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Thủ tướng Nhật Bản tập trung thảo luận Chiến lược Tokyo cũng như phương hướng và các biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hợp tác Mekong -Nhật Bản giai đoạn 2013-2015.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ đưa ra đề xuất và sáng kiến nhằm thúc đẩy cơ chế hợp tác này ngày càng thiết thực và hiệu quả…
Cũng trong ngày hôm nay ở thủ đô Tokyo, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiến hành nhiều cuộc tiếp xúc quan trọng với các chính trị gia, các tập đoàn, tổ chức kinh tế lớn của Nhật Bản nhằm thức đẩy quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.
Cựu Thủ tướng Nhật Bản Yukio Hatoyama và các Nghị sỹ Liên minh Nghị sỹ Hữu nghị Nhật Bản-Việt Nam là những vị khách đầu tiên. Thủ tướng đánh giá cao tình cảm nồng ấm và những đóng góp quý báu vun đắp quan hệ hợp tác, hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản của ngài Yukio Hatoyama và các Nghị sỹ.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Nhật Bản Okada Katsuya.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Nhật Bản Okada Katsuya. 
Thủ tướng khẳng định: Việt Nam coi trọng và mong muốn tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác với Nhật Bản, đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam, đặc biệt là các lĩnh vực đột phá chiến lược như đào tạo nguồn nhân lực, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, phát triển cơ sở hạ tầng…
Cựu Thủ tướng Nhật Bản Yukio Hatoyama đánh giá cao tình cảm hữu nghị, sự giúp đỡ quý báu và hiệu quả của Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã dành cho Nhật Bản trong nỗ lực tái thiết sau trận động đất, sóng thần năm 2011.
Ông Yukio Hatoyama và các Nghị sỹ tin tưởng quan hệ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản sẽ tiếp tục phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, nhất là triển khai hiệu quả các dự án lớn mà hai bên đã thỏa thuận liên quan đến xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, xây dựng khu công nghệ cao, các chương trình hợp tác về giáo dục-đào tạo, văn hóa, y tế…
Cựu Thủ tướng Nhật Bản Yukio Hatoyama khẳng định tiếp tục đóng góp tích cực thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước nói chung và quan hệ giữa Quốc hội hai nước nói riêng...
Hội kiến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Phó Thủ tướng Nhật Bản Katsuya Okada nhiệt liệt chào mừng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng Đoàn đại biểu Việt Nam sang tham dự Hội nghị Cấp cao Mekong -Nhật Bản lần thứ 4 sẽ góp phần tích cực vào thành công chung của hội nghị, thúc đẩy cơ chế hợp tác Mekong -Nhật Bản cũng như đẩy mạnh quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam-Nhật Bản.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp ngài Yukio Hatoyama, cựu Thủ tướng Nhật Bản
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp ngài Yukio Hatoyama, cựu Thủ tướng Nhật Bản 
Phó Thủ tướng Nhật Bản bày tỏ vui mừng quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước tiếp tục có những bước phát triển nhanh chóng kể từ sau chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng năm 2011; khẳng định trên cương vị của mình sẽ tiếp tục quan tâm thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước….
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao những đóng góp tích cực của ngài Okada vào việc tăng cường, củng cố quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Thủ tướng đề nghị hai bên sớm tổ chức phiên họp lần thứ 4 Ủy ban Hợp tác Việt-Nhật; hợp tác chặt chẽ tổ chức tốt Năm Hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản 2013; thúc đẩy và mở rộng các chương trình giao lưu nhân dân, nhất là đối với thanh niên.
Thủ tướng mong muốn Nhật Bản tiếp tục tăng hỗ trợ ODA cho Việt Nam; đẩy mạnh hợp tác triển khai các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn....
Phát biểu trong cuộc tiếp ông Akihiko Tanaka, Chủ tịch Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản ( JICA), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng một lần nữa khẳng định: ODA của Nhật Bản đã và đang đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Cảm ơn Chính phủ Nhật Bản mặc dù phải tập trung các nguồn lực để phục hồi tái thiết đất nước sau thiên tai nhưng vẫn duy trì và tăng ODA cho Việt Nam. Hoan nghênh JICA dự kiến thành lập Quỹ tài trợ cơ sở hạ tầng dành cho Việt Nam, triển khai Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp Nhật Bản, thực hiện khảo sát, nghiên cứu để hình thành đề xuất dự án đối tác công tư (PPP)…
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp gỡ Chủ tịch JiCA
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp gỡ Chủ tịch JiCA 
Thủ tướng mong muốn Nhật Bản tăng ODA cho các chương trình đã phát huy hiệu quả cao như Tín dụng giảm nghèo, hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu… ; đề nghị JICA ủng hộ và hỗ trợ nghiên cứu và triển khai sáng kiến của Việt Nam “Tăng cường kết nối các tuyến hành lang kinh tế khu vực tiểu vùng Mê Công bằng vận tải đa phương thức” nhằm góp phần cắt giảm thời gian và chi phí vận tải cho các doanh nghiệp hoạt động ở khu vực này…
Chủ tịch Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản ( JICA) Akihiko Tanaka vui mừng trước những bước phát triển trong quan hệ hai nước, nhất là sau khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược; đánh giá cao một số dự án ODA đã và đang phát huy hiệu quả.
Ông Akihiko Tanaka khẳng định, JICA sẽ phối hợp chặt chẽ với phía Việt Nam triển khai các dự án, công trình bằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản theo các thoả thuận mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã ký kết, đồng thời đề nghị hai bên xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai đúng tiến độ các dự án…
Cùng ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã tiếp một số lãnh đạo các Tập đoàn kinh tế, Tổ chức tài chính lớn của Nhật Bản như Hitachi, Mitsubishi, Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản ( JBIC)…và gặp gỡ cán bộ, nhân viên Đại sứ quán nước ta tại Nhật Bản./.

Thành Chung/VOVTV (từ Tokyo)