Trang

Diệp Kính Thiên: Nguyễn Tấn Dũng có thắng không?

Khả năng được đề cử chức Tổng bí thư khóa 12 cho Nguyễn Tấn Dũng có thể chắc chắn. Đây mới chỉ là hiệp một. Sang hiệp hai – bầu cử Ban chấp hành Trung ương khóa 12 – mới là chủ yếu.

Anh Ba Thanh: Nguyễn Phú Trọng sẽ làm Tổng bí thư nửa nhiệm kỳ đầu khóa XII ?

Khai mạc hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hé lộ một chi tiết đáng lưu ý trong báo cáo đó là về đề xuất tiêu chí xem xét trường hợp "đặc biệt"

Hiển thị các bài đăng có nhãn Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng

4.6.12

Mỹ sẽ sớm bán vũ khí cho Việt Nam ?

Thượng nghị sỹ John McCain nói quá trình thương thảo về bán vũ khí sát thương cho Việt Nam đang diễn ra 'một cách tích cực'.
Nói chuyện với BBC tại diễn đàn an ninh khu vực Đối thoại Shangri-La, ông McCain bày tỏ lạc quan, rằng ông hài lòng về sự phát triển "quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam".
"Việc này [bán vũ khí] phụ thuộc vào loại vũ khí gì. Có những loại vũ khí mà chúng tôi cho rằng Việt Nam không cần thiết phải có."
Tuy nhiên ông nói một số loại vũ khí khác "có thể đàm phán được" và hai bên đang trong quá trình thương thảo.
Hai thượng nghị sỹ, đặc biệt là ông John McCain, có mối quan tâm lớn tới Việt Nam  
"Đây là chủ đề mà tôi cho là hai nước có thể giải quyết một cách tích cực".
Ông John McCain được cho là thành viên có ảnh hưởng trong Ủy ban Quân vụ của Thượng viện Hoa Kỳ.
Nhân vật từng là ứng viên tổng thống của Đảng Cộng hòa cũng có nhiều duyên nợ với Việt Nam. Ông từng tham chiến ở Việt Nam và bị cầm tù sau khi máy bay của ông bị bắn hạ trên bầu trời Hà Nội.
Năm 1994, Mỹ đã bỏ cấm vận kinh tế với Việt Nam, nhưng vẫn cấm bán các loại vũ khí sát thương cho quốc gia cựu thù.
Để dỡ bỏ lệnh cấm vận này, Washington đòi hỏi Hà Nội thực hiện một số điểm, trong đó có chủ đề nhân quyền.

Có sự chuyển dịch?

Trong tuần này, tại Malaysia ông McCain vẫn còn giữ quan điểm là "chúng tôi mong đợi có tiến bộ về nhân quyền" ở Việt Nam.
"Chúng tôi mong đợi tiến bộ chứ không phải là thay đổi tức thì."
"Vấn đề đó [quyền con người] phải được chính quyền Việt Nam xem xét nghiêm túc hơn."
Tuy nhiên trong bối cảnh đang có cuộc chạy đua mua vũ khí ở khu vực, và Việt Nam trở thành quốc gia mua vũ khí thuộc loại nhiều nhất từ Nga, dường như đang có sự chuyển dịch trong khía cạnh nhạy cảm này của quan hệ song phương Mỹ-Việt.
Chuyên gia về quốc phòng khu vực Andrei Chang, chủ biên tạp chí quốc phòng Kanwa, nói lệnh cấm vận vũ khí sát thương của Mỹ đã "lỗi thời".
"Trong tình hình hiện nay, tôi cho là nó sẽ sớm được dỡ bỏ."
Trong khi đó, Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia về Việt Nam tại Canberra, Úc châu, thì dự đoán "Hoa Kỳ sẽ không dỡ bỏ các hạn chế về bán vũ khí sát thương và một số loại vũ khí khác cho Việt Nam chừng nào Hà Nội chưa đưa ra cải thiện về nhân quyền".
Mới đây, bên lề cuộc họp Quốc hội tại Hà Nội, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh nói với báo giới trong nước rằng Việt Nam vẫn đang kiến nghị bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương.
Ông Thanh cũng nói, tuy vậy, nhu cầu mua vũ khí từ Mỹ không nhiều vì khả năng tài chính của Việt Nam còn hạn chế. Hà Nội chủ yếu mong muốn mua linh kiện,khí tài để bảo dưỡng và tiếp tục sử dụng các vũ khí thu được từ thời chiến.
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta sẽ có chuyến thăm chính thức Việt Nam hai ngày ngay sau khi tham dự diễn đàn an ninh ở Singapore.
Tuy không tháp tùng ông Panetta sang Việt Nam, nhưng ông McCain, người đã thăm Việt Nam nhiều lần, nói quan hệ hai bên trong nhiều lĩnh vực kể cả quốc phòng đang "tiến triển tích cực".
Bản thân Bộ trưởng Panetta nói chuyến thăm của ông sẽ thúc đẩy và cụ thể hóa Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng mà Hoa Kỳ và Việt Nam ký kết từ năm 2010.

BBC

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: 'Thăm cảng là hoạt động bình thường'


Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta hiện đang ở Việt Nam trong chuyến thăm hai ngày tới thứ Ba 5/6.

Trưa Chủ nhật 3/6, phát biểu trước các thủy thủ tàu vận tải USNS Richard E. Byrd hiện đang neo đậu để sửa chữa ở Vịnh Cam Ranh, ông Panetta tuyên bố: "Đây là môt chuyến đi lịch sử".
Ông nói: "Việc chiếc tàu đang có mặt tại đây và được công nhân Việt Nam bảo dưỡng là chỉ dấu to lớn cho thấy chúng ta đã tiến xa tới đâu".
Tuy nhiên, nhiều phân tích gia cho rằng trước con mắt theo dõi sít sao của Trung Quốc, Hà Nội luôn muốn tỏ ra là giữ cân bằng trong quan hệ với Bắc Kinh và Washington.
BBC đã có cuộc phỏng vấn với Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, bên lề diễn đàn an ninh Đối thoại Shangri-La 11 ở Singapore.
Trước hết, ông Vịnh cho biết nhận định của ông về các vấn đề an ninh đang thu hút sự quan tâm của thế giới.
Ông Vịnh đã có mặt tại diễn đàn Đối thoại Shangri-La 11 ở Singapore 
Ông Nguyễn Chí Vịnh: Nhận xét của chúng tôi khi tham dự hội nghị lần này là nhu cầu hợp tác về quốc phòng-an ninh [trên thế giới] đang tăng lên rõ rệt.
Một diễn đàn không chính thức như thế này mà tập trung được rất nhiều lãnh đạo các quốc gia, quốc phòng, học giả, nhà báo... Tiếng nói chung của hội nghị là mong muốn tìm được cơ hội và đường hướng để tạo ổn định và hòa bình cho từng quốc gia.
Bên cạnh xu thế chung của thời đại là hòa bình, ổn định và phát triển, thế giới trong năm vừa qua cũng gặp nhiều vấn đề về an ninh và không chỉ ở một khu vực. Điển hình là ở Trung Đông và Bắc Phi; hay Đông Bắc Á, rồi châu Á-Thái Bình Dương và Đông Nam Á.
Vì sao lại có nhiều bất ổn như vậy khi mà thế giới ngày một văn minh hơn? Tôi nghĩ một lý do là hệ lụy của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Mọi quốc gia đều phải tìm con đường đi của mình [để thoát khỏi khủng hoảng].
Thứ hai nữa là trong thời gian ngắn, châu Á-Thái Bình Dương đã trở nên một khu vực thu hút sự chú ý nhiều nhất trên thế giới. Ngay Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ cũng đã nhận định, rằng châu Á-Thái Bình Dương là tương lai của thế kỷ 21.
Chính vì vậy, khu vực này tạo ra nhiều lợi ích , đương nhiên dẫn đến nhiều cọ xát vì lợi ích và xảy ra xung đột.
Về Biển Đông tôi cho rằng về đại cục thì đã có tiến bộ nhưng vẫn còn tiềm ẩn và xảy ra những điều đáng tiếc, vì các nước vẫn chưa tìm được tiếng nói chung, chưa tạo dựng được luật chung trong cách ứng xử và phân chia lợi ích trong khu vực.
Bộ trưởng Panetta gặp binh sỹ trên tàu USNS Richard E. Byrd hôm Chủ nhật 
BBC: Theo ông nhận định thì nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang ở Biển Đông có lớn hay không và làm sao để kiểm soát nguy cơ này?
Ông Nguyễn Chí Vịnh: Theo tôi nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang không lớn vì nếu xảy ra vào lúc này, nó sẽ không chỉ diễn ra giữa hai nước mà sẽ lôi kéo rất nhiều quốc gia.
Hậu quả của nó cũng sẽ không dừng lại ở các nước trực tiếp liên quan, mà ảnh hưởng tới tất cả các nước có lợi ích trong khu vực. Vì vậy không một nước nào đủ liều lĩnh để tạo ra xung đột quân sự trên biển.
Tuy nhiên các mâu thuẫn và bất bình đẳng trong ứng xử và tìm kiếm lợi ích trên Biển Đông thì vẫn hiện hữu, vẫn diễn ra và cần đấu tranh để đẩy lùi chúng.
BBC: Đúng một năm trước đây, đã có biểu tình phản đối chính sách Biển Đông của Trung Quốc ở trong nước. Lúc đó ông có kêu gọi người dân nên tin tưởng vào cách giải quyết của chính phủ. Vậy một năm qua, chính phủ đã có cách giải quyết như thế nào?
Ông Nguyễn Chí Vịnh: Không chỉ một năm mà một thời gian tương đối dài vừa qua, Đảng CSVN và Nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm tới việc xử lý các vấn đề trên Biển Đông với ba mục tiêu rõ ràng.
Trước hết là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, như quy định cụ thể trong Luật Biển mà ông Thủ tướng đã phát biểu trước Quốc hội.
Thứ hai là bảo đảm quan hệ hòa bình, hữu nghị và từng bước phát triển với các nước láng giềng, đặc biệt là với Trung Quốc. Không thể đặt vấn đề Biển Đông ra ngoài quan hệ chung với Trung Quốc.
Đây cũng là động lực giúp giải quyết mục tiêu thứ nhất ở trên vì chỉ khi nào có mối quan hệ bình đẳng, hiểu biết lẫn nhau thì mới có thể yên tâm về một nền hòa bình bền vững, giữ ổn định nhưng lại bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ.
Mục tiêu thứ ba là làm cho người dân hiểu về Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông, các khái niệm như vùng đặc quyền kinh tế... và rằng Việt Nam đã và sẽ làm những gì có thể để bảo vệ chủ quyền nhưng cũng không đem thảm họa khác cho dân tộc, là chiến tranh.
Tôi nghĩ là người dân đã có hiểu biết cơ bản về những điều mà tôi vừa nói.

'Hoạt động kinh tế'

BBC: Nói đến một nước lớn khác, thì Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đang có chuyến thăm Việt Nam. Nghị trình của ông Panetta ở Việt Nam là gì, thưa ông?
Ông Nguyễn Chí Vịnh: Hoạt động chủ yếu là ông Panetta sẽ đàm phán với Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh. Ông cũng sẽ tới chào lãnh đạo chính phủ Việt Nam.
Ngoài ra ông Panetta sẽ thăm cảng Ba Ngòi ở Vịnh Cam Ranh, nơi mà Tỉnh Khánh Hòa cùng Tập đoàn Tàu thủy Việt Nam đang sửa chữa tàu vận tải quân sự cho Mỹ.
Ông còn thăm cơ quan MIA (Tìm kiếm người Mỹ mất tích trong cuộc chiến Việt Nam). Đây là lĩnh vực hợp tác mà cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều hài lòng.
BBC: Ông Panetta đã tới thăm hải cảng Cam Ranh, nơi mà Hoa Kỳ từng sử dụng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Bởi vậy hành động này được cho là mang tính biểu tượng lớn. Liệu có quan ngại rằng một nước thứ ba nào khác, hay nói thẳng ra là Trung Quốc, sẽ lo lắng về việc Việt Nam "xích lại quá gần" với Hoa Kỳ?
Ông Nguyễn Chí Vịnh: Trước hết cần nói về Cam Ranh. Vịnh Cam Ranh là khu vực rất rộng lớn, quân cảng chỉ là một phần. Trong khu vực quân cảng, Việt Nam không có hợp tác với nước nào và cũng không cho tàu thuyền bất kỳ nước nào vào trong cả.
Bên cạnh đó, có một khu vực kinh tế rất lớn là cảng Ba Ngòi, do Tỉnh Khánh Hòa quản lý. Tại đây, có một xưởng sửa chữa tàu biển và cho tới nay một số tàu vận tải của Mỹ đã vào sửa chữa.
Trong quá trình phát triển kinh tế đối ngoại, Tỉnh Khánh Hòa và Tập đoàn Tàu thủy Việt Namđã ký hợp đồng để sửa chữa cho các tàu dân sự và vận tải quân sự nhưng không vũ trang của nước ngoài, ở mức tiểu tu và bảo dưỡng nhỏ vì trình độ của Việt Nam còn hạn chế.
Nếu [nước nào] hiểu đúng tình hình thực tế như vậy thì tôi cho là không có lý do gì để quan ngại cả.
Đây là hoạt động kinh tế bình thường. Cảng Ba Ngòi đã đón tàu vận tải Mỹ vào sửa chữa và cũng sẽ đón tàu của Trung Quốc, Nhật Bản, Nga... nếu như có nhu cầu trên cơ sở hợp đồng kinh tế.
BBC: Chúng tôi vừa có cuộc nói chuyện với Thượng nghị sỹ John McCain, trong đó ông McCain tỏ ra lạc quan về việc Mỹ có thể bán một số loại vũ khí sát thương cho Việt Nam trong tương lai. Thưa, ông có thể bình luận gì về việc này?
Ông Nguyễn Chí Vịnh: Việc bỏ cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam mang ý nghĩa biểu tượng là chủ yếu vì không thể có quan hệ lành mạnh, bình đẳng mà nước này lại cấm vận với nước kia.
Bỏ cấm vận sẽ tạo tin tưởng rằng Mỹ tôn trọng Việt Nam. Chừng nào chưa bỏ cấm vận thì Mỹ cũng chưa thể nói rằng hai bên đã có quan hệ lành mạnh và bình đẳng.
Tuy nhiên đây là công việc mang tính chính trị là chủ yếu, còn cho tới nay Việt Nam chưa có nhu cầu mua vũ khí, trang bị của Mỹ.
BBC: Một trong các điều kiện mà Hoa Kỳ đòi hỏi nhằm bỏ cấm vận vũ khí với Việt Nam là phải cải thiện nhân quyền. Theo ông đánh giá, khác biệt về nhân quyền giữa Việt Nam và Hoa Kỳ còn lớn hay không?
Ông Nguyễn Chí Vịnh: Theo tôi còn khác biệt là do Mỹ chưa hiểu đầy đủ về Việt Nam. Tôi không thấy có điều gì để nói là vi phạm nhân quyền ở Việt Nam.
Hành động vi phạm pháp luật, cản trở tiến bộ xã hội, bị xã hội lên án, cơ quan nhà nước xử lý thì không thể gọi là vi phạm nhân quyền được.
Tôi mong là quan chức Mỹ tìm hiểu Việt Nam kỹ hơn, sang Việt Nam nhiều hơn thì sẽ không nói là Việt Nam thiếu nhân quyền.

BBC 

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta thăm Vịnh Cam Ranh

Trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam, trưa 3/6, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã thăm tàu USNS Richard E. Byrd của Mỹ, đang neo đậu trong quá trình sửa chữa tại Vịnh Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.


Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tới Việt Nam  
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đến thăm vịnh Cam Ranh.

Ông Leon Panetta nhắc đến cuộc chiến Việt Nam và nhu cầu nhìn tới tương lai 
Phát biểu trước giới báo chí Việt Nam và quốc tế có mặt trên tàu USNS Richard, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta cho biết chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam lần này của ông nhằm mở rộng mối quan hệ hợp tác về quốc phòng với Việt Nam theo biên bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng giữa hai nước ký kết hồi năm ngoái.
Chiếc Air Force chở Bộ trưởng Panetta đáp xuống sân bay Cam Ranh 
Trong đó, hai bên chú trọng các lĩnh vực tìm kiếm, cứu nạn hàng hải, kiểm soát thảm họa thiên tai, các hoạt động gìn giữ an ninh, an toàn và tự do hàng hải trên biển Đông.
Ông cho rằng tiềm năng quan hệ giữa hai nước còn rất lớn và Mỹ đang cố gắng nâng mối quan hệ đó lên tầm cao mới.
Chiếc máy bay chở đoàn báo chí và tùy tùng của Bộ trưởng Panetta đáp xuống sân bay Cam Ranh 
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta bày tỏ cảm ơn Việt Nam đã tích cực hỗ trợ, giúp đỡ trong việc tìm kiếm hài cốt binh lính Mỹ mất tích trong chiến tranh tại Việt Nam.
Tàu USNS Richard E. Byrd của Mỹ đang sửa chữa tại vịnh Cam Ranh, được Bộ trưởng Panetta ghé thăm trong chuyến công du tại Việt Nam 
Theo dự kiến, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta sẽ có cuộc hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh vào ngày 4/6 tại Hà Nội; sau đó đến chào Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng./.
Tàu chuyên dụng tại cảng Ba Ngòi đón Bộ trưởng Panetta cùng đoàn tùy tùng


Ông Panetta gắn huy hiệu cho một số thủy thủ
Bắt tay từng thủy thủ trên tàu

Bắt tay từng thủy thủ trên tàu

31.5.12

Chạy đua vũ trang điên cuồng ở châu Á

Tác giả: Conn Hallinan
Người dịch: Dương Lệ Chi
29-05-2012
Châu Á hiện đang chạy đua vũ trang chưa từng có, đây không chỉ là cuộc đua căng thẳng dữ dội trong khu vực mà còn là sự cạnh tranh của các nước châu Á với những nỗ lực nhằm giải quyết sự chênh lệch giữa đói nghèo và phát triển kinh tế. Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo – được tính bằng hệ số Gini, đo sự bất bình đẳng – đã tăng từ 39% đến 46% ở Trung Quốc, Ấn Độ, và Indonesia. Mặc dù các gia đình giàu vẫn tiếp tục có được nhiều của cải hơn và nhận được phần lớn hơn trong chiếc bánh kinh tế, “Trẻ em sinh ra trong những gia đình nghèo có khả năng tử vong khi còn là trẻ sơ sinh có thể lớn hơn gấp 10 lần” so với những em được sinh ra trong các gia đình giàu có, theo Changyong Rhee, trưởng kinh tế gia thuộc Ngân hàng Phát triển Châu Á.
          Súng đạn thay cho thực phẩm
Xu hướng bất bình đẳng này đặc biệt sâu sắc ở Ấn Độ, nơi tuổi thọ trung bình thì thấp và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thì cao, nền giáo dục chắp vá, mù chữ phổ biến rộng rãi, cho dù tình trạng của đất nước là nền kinh tế lớn thứ ba ở châu Á, sau Trung Quốc và Nhật Bản. Theo một tổ chức từ thiện độc lập, Quỹ Naandi, khoảng 42% trẻ em Ấn Độ bị suy dinh dưỡng. Bangladesh, một đất nước nghèo khó hơn, nhưng ở tất cả các lĩnh vực này thì tốt hơn nhiều.
Ấn Độ thử tên lửa đạn đạo: dấu hiệu chạy đua vũ trang châu Á?
Năm ngoái, Ấn Độ là nước mua vũ khí hàng đầu trên thế giới, đã mua máy bay chiến đấu hiệu suất cao của Pháp, với số hàng trị giá 20 tỷ đô la. Ấn Độ cũng đang chế tạo loại tên lửa đạn đạo tầm xa có khả năng mang nhiều đầu đạn hạt nhân, cũng như mua tàu ngầm và tàu chạy trên mặt nước. Ngân sách quân sự của Ấn gia tăng 17 % trong năm nay, lên tới 42 tỷ đô la.

“Thật là nực cười. Chúng ta đang chạy đua vũ trang vô nghĩa, bằng chi phí của những người nghèo”, ông Praful Bidwai, thuộc Liên minh Giải trừ Vũ khí Hạt nhân và Hòa Bình đã nói với báo The New York Times.

Trung Quốc cũng đang gia tăng việc mua vũ khí, gồm tăng cường hải quân, chế tạo một máy bay tàng hình thế hệ mới, và chế tạo một tên lửa đạn đạo có khả năng vô hiệu hóa tàu sân bay Mỹ đến gần bờ biển của họ. Ngân sách quân sự của Bắc Kinh gia tăng với tốc độ khoảng 12% một năm, khoảng 106,41 tỷ đô la, lớn thứ hai trên hành tinh. Tổng ngân sách dành cho an ninh quốc gia của Mỹ – không tính các cuộc chiến tranh khác mà Washington đang tham gia, hơn 800 tỷ đô la, mặc dù một số người ước tính ngân sách này nhiều hơn 1.000 tỷ đô la.

Mặc dù Trung Quốc có những bước tiến lớn trong việc xóa đói giảm nghèo, nhưng khoảng 250 triệu người Trung Quốc chính thức được coi là nghèo, và nền kinh tế nóng hổi của đất nước trước đây thì đang nguội. “Các số liệu chi tiêu và sản lượng trong tháng 4 chưa thấy hy vọng rằng nền kinh tế của Trung Quốc đang chạm đáy”, Mark Williams, trưởng kinh tế gia châu Á tại Capital Economics, nói với báo Financial Times.

Điều này cũng đúng đối với hầu hết các nước ở châu Á. Ví dụ, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Ấn Độ đã giảm từ 9% xuống còn 6,1% trong hai năm rưỡi qua.
          Căng thẳng trong khu vực
Căng thẳng giữa Trung Quốc và các nước khác trong khu vực làm gia tăng một cuộc chạy đua vũ trang trong vùng. Đài Loan đang mua bốn tàu khu trục có tên lửa dẫn đường loại Perry, do Mỹ sản xuất, và Nhật Bản đã chuyển phần lớn lực lượng quân sự của họ từ các hòn đảo phía bắc sang phía nam, đối diện với Trung Quốc.

Philippines đang bỏ ra gần 1 tỉ đô la để mua máy bay và radar mới, và gần đây tiến hành tập trận chung với Hoa Kỳ. Nam Triều Tiên vừa thử nghiệm thành công một tên lửa hành trình tầm xa. Washington đang phục hồi quan hệ quân sự với Indonesia do đảo quốc này kiểm soát các đường biển chiến lược mà hầu hết việc vận chuyển thương mại và cung cấp năng lượng trong khu vực đi ngang qua đó.
Tên lửa tầm ngắn hiện đại EXTRA của Israel 
Úc cũng đang tái định hướng quốc phòng về phía đối mặt với Trung Quốc và ông Stephen Smith, Bộ trưởng Quốc phòng Úc đã kêu gọi Ấn Độ “giữ vai trò mà họ có thể và vai trò mà họ nên giữ, như một cường quốc đang trỗi dậy đối với an ninh và ổn định trong khu vực”.

Nhưng “vai trò” đó không có gì là rõ ràng, và một số người đã xem tuyên bố của ông Smith là một nỗ lực để kéo New Delhi vào một mặt trận thống nhất chống lại Bắc Kinh. Thử nghiệm tên lửa đạn đạo hạt nhân Agni V gần đây của Ấn Độ phần lớn được xem như nhắm vào Trung Quốc.

Ấn Độ và Trung Quốc đã đánh nhau trong một cuộc chiến biên giới ngắn ngủi nhưng kinh hoàng hồi năm 1962, và Ấn Độ tuyên bố Trung Quốc hiện đang chiếm khoảng 15.000 dặm vuông lãnh thổ của Ấn Độ. Ngược lại, Trung Quốc, tuyên bố gần như toàn bộ 40.000 dặm vuông của bang Arunachal Pradesh, Ấn Độ là của họ. Mặc dù ông Manmohan Singh, Thủ tướng Ấn Độ, nói rằng “nói chung, quan hệ của chúng tôi [với Trung Quốc] là khá tốt”, nhưng ông cũng thừa nhận “vấn đề biên giới là một vấn đề lâu dài”.

Ấn Độ và Trung Quốc cũng đã cãi nhau ngắn ngủi hồi năm ngoái khi một tàu chiến Trung Quốc yêu cầu tàu tấn công đổ bộ của Ấn Độ Airavat nhận diện chính họ, ngay sau khi con tàu này rời khỏi cảng ở Hà Nội, Việt Nam. Không có gì xảy ra trong vụ việc này, nhưng kể từ đó, Tổng thống Ấn Độ Pratibha Patil đã nhấn mạnh sự cần thiết về “an ninh hàng hải” và “bảo vệ bờ biển của chúng tôi, các ‘tuyến đường giao thông trên biển’, và các khu vực phát triển ngoài khơi”.

Lập trường mạnh mẽ của Trung Quốc ở biển Đông đã gây căng thẳng với Việt Nam, Đài Loan, Brunei, và Malaysia. Một sự đối đầu giữa một tàu chiến của Philippines và nhiều tàu giám sát của Trung Quốc tại bãi cạn Scarborough hồi tháng trước vẫn còn đang được kềm chế ở mức độ thấp.
Chiến đấu cơ đa năng tàng hình thế hệ 5 T-50 PAK FA của Nga 
Thái độ của Trung Quốc quyết đoán hơn trong khu vực phần lớn bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng ở eo biển Đài Loan năm 1995-1996, khi hai tàu sân bay Hoa Kỳ làm bẽ mặt Bắc Kinh trong vùng biển của họ. Rủi ro để có thể xảy ra chiến tranh trong cuộc khủng hoảng này thì không lớn – Trung Quốc không có khả năng xâm lược Đài Loan – nhưng chính phủ Clinton đã có cơ hội để chứng minh sức mạnh hải quân của Mỹ. Trung Quốc gia tăng sức mạnh hải quân kể từ sự kiện đó.

Sự “chuyển hướng” của chính phủ Obama về phía châu Á, gồm việc gia tăng quân sự ở đảo Wake và đảo Guam, triển khai 2.500 lính thủy quân lục chiến ở Úc, đã gia tăng căng thẳng trong khu vực, và việc xử lý vấn đề biển Đông một cách cứng rắn của Bắc Kinh, đã mở ra cho Washington cánh cửa để bước vào tranh chấp.

Trung Quốc có cảm thấy khó chịu về vùng biển nhà của họ – người ta có thể hiểu điều đó, đưa ra lịch sử 100 năm qua – nhưng không có bằng chứng là họ bành trướng. Một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nói hồi tháng 2, “Không có nước nào, kể cả Trung Quốc, đã tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ biển Hoa Nam”. Bắc Kinh dường như chưa sẵn sàng sử dụng lực lượng quân sự. Bắc Kinh đã học được vài bài học từ cuộc xâm lược Việt Nam thảm khốc năm 1979.

Mặt khác, Bắc Kinh rất lo ngại về những nước kiểm soát vùng biển trong khu vực, một phần là vì khoảng 80% nguồn cung cấp năng lượng của Trung Quốc đi qua điểm mấu chốt trên biển, do Hoa Kỳ và các đồng minh của họ kiểm soát.
          Cảnh báo của Eisenhower
Sự căng thẳng ở châu Á là có thật, nếu không phải nói là gay gắt và sâu xa như các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ mô tả. Trung Quốc và Ấn Độ thật sự có “vấn đề” về biên giới nhưng Trung Quốc cũng coi chính họ và New Delhi “không phải là đối thủ cạnh tranh mà là đối tác”, và thậm chí đã đề nghị làm liên minh để giữ không cho “các cường quốc bên ngoài” – được hiểu là: Hoa Kỳ và NATO – can thiệp vào khu vực.

Câu hỏi thực sự là, liệu châu Á có thể lao vào một cuộc chạy đua vũ trang mà không làm gia tăng hố sâu ngăn cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng gia tăng và với kết quả là sự bất ổn chính trị có khả năng theo sau? “Sự bất bình đẳng ngày càng lớn sẽ đe dọa sự tăng trưởng bền vững ở châu Á. Một quốc gia bị chia rẽ và bất bình đẳng không thể là một nước thịnh vượng”, ông Rhee, kinh tế gia thuộc Ngân hàng Phát triển Châu Á, nói.

Hơn nửa thế kỷ trước, Tổng thống và là Tổng Tư lệnh tối cao Dwight Eisenhower đã lưu ý rằng: “Mỗi khẩu súng được chế tạo, mỗi tàu chiến được hạ thủy, mỗi tên lửa được phóng ra, đều có nghĩa là… một hành vi trộm cắp từ những người đói khổ mà không có ăn, từ những người bị lạnh mà không mặc… cuộc sống hoàn toàn không phải là như thế… đó chính là đem nhân loại lên treo trên cây thánh giá”.

Người Mỹ đã bỏ qua lời cảnh báo của tổng thống Eisenhower. Các nước châu Á sẽ làm tốt nếu chú ý.
Nguồn: FPIF/ Huffington Post
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012

26.5.12

Trung Quốc có bị Hoa Kỳ và đồng minh bao vây?

Thành lập bộ phận châu Á của hệ thống phòng thủ tên lửa toàn cầu là mục tiêu chính của cuộc tập trận hải quân chung của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Australia. Phải chăng đây là 1 động thái mới của Mỹ để kiềm chế và chống lại sự ngày càng lớn mạnh của quân đội Trung Quốc ở Châu Á - Thái Bình Dương?
Hoa Kỳ dựng liên minh hải quân chống Trung Quốc 
Các chuyên gia Nga đã đưa ra ý kiến như vậy sau khi có tin về việc ngày 6/ 6/2012 sẽ bắt đầu cuộc trập trận chung quy mô lớn ở vùng biển phía đông đảo Kyushu.Tham gia cuộc tập trận này sẽ có các tàu chiến, tàu ngầm và máy bay tuần tra chống tàu ngầm của ba nước.
Đây là cuộc tập trận thứ năm kể từ năm 2007 của lực lượng hải quân Hoa Kỳ, Nhật Bản và Australia. Tuy nhiên, đây là cuộc tập trận ba bên đầu tiên sau khi Lầu Năm Góc bắt đầu thành lập hệ thống phòng thủ tên lửa châu Á. Về mặt chính thức, hoạt động này đã bắt đầu vào tháng 4 năm nay.
Theo kế hoạch, các bộ phận tiền tiêu của hệ thống NMD sẽ bố trí ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia. Nói về việc này, chuyên gia Igor Korotchenko, thành viên Hội đồng Cộng đồng thuộc Bộ Quốc phòng Nga, tổng biên tập tạp chí ‘Quốc phòng’, nói: ‘Cuộc tập trận có mục đích chứng minh khả năng mới trong lĩnh vực phòng thủ tên lửa của lực lượng hải quân ba nước.
Hoa Kỳ đang tích cực phát triển bộ phận của hệ thống phòng thủ tên lửa ở Châu Á 
Hoa Kỳ đang tích cực phát triển bộ phận châu Á của hệ thống NMD. Washington không chỉ hy vọng vào sự hỗ trợ quân sự của các đồng minh, mà còn muốn để các nước này, đặc biệt Nhật Bản, trực tiếp tham gia qúa trình phát triển hệ thống chống tên lửa ‘Aegis’.
Các chuyên gia Nga cho rằng, ở mức độ nhất định, cuộc tập trận mang tính chất chống Trung Quốc, nhằm làm giảm khả năng của Trung Quốc trong lĩnh vực kiềm chế hạt nhân chiến lược’.
Cuối năm ngoái, Mỹ đã thông qua chiến lược an ninh quốc gia mới. Chuyên gia Konstantin Sivkov, Phó Chủ tịch thứ nhất của Học viện các vấn đề địa chính trị, nhắc nhở rằng, theo chiến lược an ninh mới của Mỹ, Trung Quốc là đối thủ địa chính trị chính của họ.
Và cuộc tập trận sắp tới là một cơ hội tốt để phô trương sức mạnh của Mỹ và đồng minh. Chuyên gia Sivkov nói tiếp: ‘Hệ thống phòng thủ tên lửa mà Mỹ đang thành lập ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương định hướng chống Trung Quốc. Cuộc tập trận hải quân sắp tới là cần thiết để hoàn thiện cơ chế sử dụng vũ lực và các phương tiện phòng thủ tên lửa’.
Bộ phận châu Á của hệ thống phòng thủ tên lửa toàn cầu có đặc điểm như sau: các hệ thống radar và các thành phần thiết bị đánh chặn tên lửa đạn đạo về chủ yếu bố trí trên tàu chiến. Trung Quốc đang tích cực gia tăng lực lượng hải quân của mình.
Theo Hoa Kỳ, điều đó tạo nguy cơ đe dọa sự hiện diện của họ trong khu vực. Chắc là, cuộc tập trận này được thực hiện để hoàn thiện cơ chế tương tác với các đồng minh trong khu vực trong trường hợp cấp tính đối đầu quân sự với Trung Quốc’.
Hình ảnh cuộc tập trận Trung - Nga cuối tháng 4 năm nay 
Cuối tháng Tư, Hải quân của Trung Quốc và Nga đã tổ chức cuộc tập trận chung lớn nhất trong những năm gần đây ở vùng biển Hoàng Hải. Hai bên đã tập luyện các hoạt động chung trên không, trên biển và dưới nước trong trường hợp phải giáng trả nguy cơ khủng bố.
Cuộc diễn tập đã được tổ chức trong bối cảnh Mỹ đang thành lập hệ thống NMD ở châu Á, vì thế nhiều chuyên gia coi đó là hoạt động tập thể nhằm củng cố an ninh chung.
Nói chung, châu Á giữ vị trí hàng đầu trên thế giới về số lượng và quy mô các cuộc tập trận hải quân chung. Thành phần các nước tham gia có thể thay đổi. Chẳng hạn, ngày 28 /5 sẽ bắt đầu cuộc tập trận chung đầu tiên của Hải quân Australia và Hàn Quốc. Hoạt động này sẽ được tổ chức ở vùng biển phía Nam của bán đảo Triều Tiên, gần đảo Jeju của Hàn Quốc.
Mỹ dựng lên liên minh quân sự của mình ở Châu Á - Thái Bình Dương trước sự lo ngại sức mạnh của quân đội Trung Quốc 
Mục đích chính của cuộc tập trận là tập luyện phát hiện và theo dõi tàu ngầm của đối phương và sử dụng ngư lôi. Tham gia cuộc tập trận sẽ có gần mười tàu chiến và tàu ngầm, kể cả tàu khu trục trang bị hệ thống đa năng ‘Aegis’ - một trong những thành phần chính của hệ thống phòng thủ tên lửa Mỹ ở châu Á.
  • Theo Igor Korotchenko, Konstantin Sivkov, Tiếng nói nước Nga (GDVN)


25.5.12

Thượng viện Mỹ sẽ sớm thông qua UNCLOS?

Ngày 23-5, Thượng viện Mỹ tiến hành xem xét việc thông qua Công ước Luật biển của Liên hợp quốc (UNCLOS) 1982. Phiên điều trần diễn ra trong bối cảnh nước Mỹ đang có những điều chỉnh lớn về chính sách đối ngoại và thế giới đang chứng kiến nhiều cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo đáng chú ý.

Tranh luận nội bộ về UNCLOS

Là một quốc gia luôn đề cao sức mạnh của luật pháp nhưng quá trình Mỹ xem xét phê chuẩn UNCLOS chưa bao giờ diễn ra như mong đợi. Vấn đề UNCLOS đã trở thành "di sản" đối ngoại của nước Mỹ từ thời Tổng thống thứ 40 Ronal Reagan. Trải qua gần 4 đời Tổng thống Mỹ với 6 nhiệm kỳ kể từ đó, UNCLOS luôn là đề tài tranh luận giữa phía Chính quyền và Quốc hội Mỹ. Trong khi, các Tổng thống thúc giục phê chuẩn để bảo vệ lợi ích của Mỹ ở Bắc Cực cũng như nhiều nơi khác, thì Quốc hội luôn chần chừ vì lợi ích từ khai thác dầu khí ở vùng thềm lục địa và duy trì ảnh hưởng của lực lượng hải quân Mỹ với "nguyên tắc" tự do lưu thông hàng hải.
Kể từ tháng 3/2004, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ đã ít nhất 2 lần đồng thuận thông qua một nghị quyết ủng hộ việc phê chuẩn UNCLOS. Sau đó, một số tướng lĩnh quân đội, cựu Đại sứ Mỹ tại LHQ, nhiều chỉ huy chiến dịch hải quân, và Phòng Thương mại Mỹ cũng đã ủng hộ văn bản này.
Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta, Ngoại trưởng Hillary Clinton và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ Martin Dempsey tại phiên điều trần (từ phải qua). Ảnh: AP 
Gần đây vấn đề này càng trở nên nóng hơn khi chỉ còn ít tháng nữa sẽ đến bầu cử Tổng thống Mỹ và các cuộc tranh chấp biển đảo, trong đó có tranh chấp biển Đông, đang có những diễn biến mới phức tạp hơn, ảnh hưởng đến lợi ích chiến lược của Mỹ tại khu vực.
Công ước Luật biển hiện nay là kết quả hội nghị UNCLOS lần thứ III của Liên hợp quốc diễn ra từ năm 1973 đến năm 1982, trong đó có những quy định về các vùng biển như nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa. Công ước này có hiệu lực từ năm 1994, sau khi được quốc gia thứ 60 phê chuẩn. Mặc dù, Mỹ đã ký vào bản Công ước có 162 thành viên này nhưng điều này không phát sinh hiệu lực đối với Mỹ do chưa được Quốc hội Mỹ phê chuẩn.
Phê chuẩn: Được nhiều hơn?
Thông qua UNCLOS sẽ đảm bảo những lợi ích hàng hải cho chính nước Mỹ. Sở hữu vùng EEZ lớn hơn bất kỳ nước nào trên thế giới với các nguồn tài nguyên biển phong phú trong đó có các vùng biển giàu khoáng sản gần bờ, Mỹ có thể thúc đẩy kinh tế, tăng sản xuất năng lượng và tạo ra nhiều việc làm mới trong nước, từ đó góp phần khắc phục khủng hoảng kinh tế hiện tại.
Theo Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta, việc phê chuẩn Công ước luật biển 1982 sẽ hỗ trợ nhiều ngành kinh tế chính của Mỹ như các ngành dầu mỏ, năng lượng, đóng tàu, vận tải biển,... Các ngành kinh tế này sẽ được lợi vì Công ước Luật biển 1982 cung cấp khung pháp lý hợp pháp hình thành một môi trường an ninh ổn định cho các hoạt động kinh doanh.
Chia sẻ quan điểm này, Tướng Martin Dempsey, chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên quân Mỹ nhận xét rằng việc phê chuẩn UNCLOS sẽ giúp Mỹ đạt được những mục tiêu chiến lược ở các khu vực như châu Á. Tại khu vực biển Đông, yêu sách "đường lười bò" của Trung Quốc không hề có tính pháp lý nếu tham chiếu các điều khoản của UNCLOS 1982. Nếu Mỹ phê chuẩn công ước này, Mỹ sẽ trở thành một bên thành viên của công ước như 5 nước tranh chấp chính ở quần đảo Trường Sa là Trung Quốc, Việt Nam, Philipines, Malaysia và Brunei (ngoài ra có có yếu tố Đài Loan). Từ đó, Mỹ sẽ có thêm một công cụ hòa bình để kiềm chế những hành động gây hấn và bảo vệ lợi ích của đồng minh Philipines ở khu vực biển Đông.
Lợi ích từ việc phê chuẩn này còn thể hiện ở chỗ Mỹ sẽ giành lại sự tín nhiệm của các nước và có tiếng nói hơn trong các vấn đề liên quan tới biển khi kêu gọi các quốc gia khác phải tuân theo các quy định của luật pháp quốc tế. Minh họa cho điều này chính là cuộc khủng hoảng hiện nay tại eo biển Hormuz. Với việc tự do lưu thông hàng hải được quy định trong UNCLOS, Mỹ sẽ có lập trường pháp lý vững vàng trong việc tự do qua lại dù Iran tuyên bố có thể đóng cửa eo biển này. Như vậy, chính sách cô lập Iran buộc nước này từ bỏ chương trình sản xuất vũ khí hạt nhân có thêm cơ sở để thành công.
Ngoại trưởng Hillary Clinton từng tuyên bố xem việc thông qua UNCLOS là ưu tiên hàng đầu về đối ngoại trong nhiệm kỳ của bà. Ngoài ra, UNCLOS cũng được Tổng thống Obama, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện và nhiều chỉ huy hải quân Mỹ ủng hộ. Do vậy, nhiều người đã lạc quan cho rằng Thượng viện Mỹ sẽ sớm tích cực xem xét bỏ phiếu thông qua Công ước quan trọng này.
Tác giả: QUỐC KHÁNH-THẠCH HÀ (TVN)

23.5.12

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta sẽ đến Việt Nam


Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta sẽ đến Việt Nam vào đầu tháng 6 tới trong khuôn khổ chuyến công du kéo dài 1 tuần đến khu vực châu Á - Thái Bình Dương.


Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta sẽ đến Việt Nam vào đầu tháng 6 tới trong khuôn khổ chuyến công du kéo dài 1 tuần đến khu vực châu Á - Thái Bình Dương - BBC ngày 23/5 dẫn thông báo của Lầu Năm Góc cho biết.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta.
Chuyến thăm Việt Nam 2 ngày của ông Panetta diễn ra 2 năm sau chuyến thăm tương tự của người tiền nhiệm Robert Gates hồi năm 2010. Đây sẽ là lần thứ 4 một bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tới thăm Hà Nội. 

"Mỹ có cam kết trong việc thúc đẩy mối quan hệ hợp tác quốc phòng song phương với Việt Nam dựa trên sự tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau" - thư ký báo chí Bộ Quốc phòng Mỹ  George Little cho biết trong cuộc họp báo ngày 22/5.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta.
Đây được cho là chuyến công du đầu tiên của ông Panetta trên cương vị Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương kể từ khi Lầu Năm Góc công bố chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực này hồi đầu năm nay. 

Vấn đề Biển Đông sẽ lên bàn "Đối thoại Shangri-la" 

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam tham dự diễn đàn Shangri-la

Trước khi tới Việt Nam, ông Panetta sẽ đến Singapore tham dự diễn đàn an ninh thường niên mang tên "Đối thoại Shangri-la" (diễn ra từ 1/6-3/6), nơi ông sẽ có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo cấp cao của các nước đồng minh chủ chốt trong khu vực và sẽ có một bài diễn văn quan trọng tại hội nghị này. 

Ông Panetta dự kiến cũng sẽ có các cuộc gặp gỡ bên lề hội nghị với các nhà lãnh đạo Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và một số quốc gia khác gồm Việt Nam để thống nhất lịch trình chuyến thăm Hà Nội - ông Little cho biết.

Trong khuôn khổ "Đối thoại Shangri-la", ông Panetta và các nhà lãnh đạo châu Á sẽ thảo luận về loạt các vấn đề đang thu hút sự quan tâm lớn trong khu vực như tranh chấp Biển Đông, tàu ngầm, chiến tranh mạng, máy bay không người lái và các mối đe dọa đang nổi lên.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta.
Sau Việt Nam, ông Panetta có kế hoạch tới thăm Ấn Độ 2 ngày. Thời gian chi tiết diễn ra chuyến thăm Việt Nam, Ấn Độ của ông Panetta không được tiết lộ. Nhưng theo thông báo của Bộ Quốc phòng Mỹ, lịch trình chi tiết của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ sẽ được công bố trong những ngày tới.

Nguyễn Hường (nguồn BBC/GDVN)



3.5.12

Việt-Mỹ trong thế cờ biển Đông

Trả lời hãng tin Blomberg trong một phỏng vấn năm ngoái, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh được dẫn lời: "Không ai có thể tưởng tượng được là quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam lại phát triển nhanh như thế này. Sau 16 năm bình thường hóa quan hệ, chúng ta đã tiến tới giai đoạn phát triển nó trên mọi lĩnh vực".

Hàm ý gì từ  tác động cộng hưởng kép?

Mỹ muốn gì ở Biển Đông? Và các nước ASEAN, mà cụ thể là Việt Nam có  thể hợp tác với siêu cường này như thế  nào để đảm bảo lợi ích của mình? Các  động thái gần đây cho thấy một bức tranh mới trong mối quan hệ hai bên đang dần dần xuất hiện với nhiều gam màu khác nhau. Từ mối quan hệ ban đầu chỉ tập trung vào việc tìm kiếm quân nhân Mỹ  mất tích trong chiến tranh Việt Nam, các dấu hiệu hợp tác gần đây khiến một số nhà quan sát  đã sử dụng cụm từ "mối quan hệ chiến lược" để hình dung về tương lai song phương giữa hai nước từng đối địch.
Tàu sân bay USS George Washington của Mỹ
thường xuyên xuất hiện ở các vùng biển châu Á trong những năm qua. Ảnh: US Navy
Trả lời hãng tin Blomberg trong một phỏng vấn năm ngoái, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh được dẫn lời: "Không ai có thể tưởng tượng được là quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam lại phát triển nhanh như thế này. Sau 16 năm bình thường hóa quan hệ, chúng ta đã tiến tới giai đoạn phát triển nó trên mọi lĩnh vực".

Cụm từ "trong mọi lĩnh vực" của tân ngoại trưởng không quá lời, khi cách đây không lâu một hiệp ước giữa hai nước được ký kết tạo cho giới quan sát nhiều chú ý. Đó là hợp tác Quân y Việt - Mỹ. Theo báo chí đưa tin, thỏa thuận bao gồm các hoạt động trao đổi chuyên môn, hội thảo cũng như hợp tác nghiên cứu y học và là một hợp tác đầu tiên trong đó là quân sự - quốc phòng. Liệu y học có là "ngôn ngữ chung"  giúp nối liền những khoảng cách - như lời của quan chức Hải quân Mỹ ví von - thì chưa ai có  thể khẳng định. 

Nhưng những bước đi "mềm"  trong lĩnh vực còn được xem là nhiều nhạy cảm này có lẽ đã khởi động trước đó một thời gian qua lời cựu đại sứ Lê Công Phụng: "Việt Nam và Mỹ đã nhất trí thiết lập cơ chế đối thoại chiến lược về an ninh - quốc phòng và cho đến nay đã tiến hành được ba vòng đối thoại. Việt Nam là một trong số rất  ít các nước ở Đông Nam Á có cơ chế  này với Mỹ". 

Bối cảnh nào thúc đẩy mối quan hệ tiến nhanh như vậy, và những viên gạch nào cần tiếp tục  được đặt nền? Vượt trên các tên gọi của giới nghiên cứu hay các nhà ngoại giao, một góc nhìn trực diện vào bản chất thật sự của quan hệ Việt - Mỹ đang cần đưa lên bàn cân đánh giá  làm tiền đề cho quá trình hoạch định chính sách. Trong đó, tác động kép từ sự thay đổi cục diện khu vực đóng vai trò tiên yếu. Một là  quá trình toàn cầu hóa. Hai là sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc kinh tế - quân sự. 

Tác động cộng hưởng kép

Dẫu đa phương hay song phương, dẫu quan hệ kinh tế hay ngoại giao, dẫu trong hoàn cảnh thuận hòa hay đang tồn tại một số bất đồng trước mắt, có hai yếu tố cần được xem xét, đó là toàn cầu hóa kinh tế và trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Một mặt, sự lựa chọn của Việt Nam tham gia thị trường toàn cầu đã làm thay đổi định hướng trong các quyết định về chiến lược ngoại giao. 

Việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế  giới (WTO) năm 2007 là một bước thứ hai trong quá  trình cải cách của Việt Nam, đánh dấu phương hướng đa phương hóa, đa dạng hóa trong các lựa chọn về  chính sách đối ngoại. Quá trình xích lại gần với cộng đồng chung thế giới nên được đánh giá trong bối cảnh ưu tiên về phát triển và  hiện đại hóa đất nước được đặt lên hàng đầu. Toàn cầu hóa trong mối quan hệ Việt - Mỹ, vì thế, kiến tạo một hình dung về thế giới ngày càng liên kết mà trong đó chia sẻ lợi  ích sẽ là yếu tố chủ đạo.
Bên cạnh đó, sự trỗi dậy của Trung Quốc xoay quanh cuộc tranh luận rằng liệu cán cân quyền lực toàn cầu có đang chuyển đổi hay không. Với Trung Quốc, một ngôi sao đang lên, đồng nghĩa rằng đây sẽ là đầu máy tăng trưởng và thịnh vượng của nền kinh tế khu vực. Gắn kết vào nền kinh tế  có 1,34 tỉ dân này là xu thế tất yếu, để tận dụng nguồn tài nguyên, giá thành nhân công, thị trường nội địa khổng lồ và xung lực tăng trưởng dồi dào.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc kinh tế - quân sự làm thay đổi tương đối cán cân quyền lực của các nước trong vùng Thái Bình Dương. Công bố về ngân sách quốc phòng từ Bắc Kinh trong năm 2011, theo phát ngôn viên chính phủ nước này, đã đạt 601 tỉ nhân dân tệ (91,5 tỉ USD), tăng 12,7%. Kế hoạch hiện đại hóa hạm đội tàu ngầm đạt bước tiến tương đối trong vòng bảy năm trở lại đây: trong năm 2002, chỉ có bảy trong 69 chiếc tàu ngầm đáp ứng tiêu chuẩn hiện đại, năm 2009 tỷ lệ này tăng lên 31 trên 65 chiếc, trong đó bao gồm 12 tàu ngầm hạng Kilo. 

Một xu hướng tương tự như thế cũng có thể quan sát từ kế hoạch phát triển kho vũ khí hạt nhân với việc thiết lập các loại tên lửa xuyên lục địa Dong Feng-31 và Dong Feng-31A với phạm vi tấn công khoảng từ 7.200km đến 11.200km. Song hành với chuyển động về năng lực quốc phòng, nước này đã có nhiều hành động xác quyết chủ quyền của mình tại vùng tranh chấp ở Biển Đông mà gần đây nhất qua hai vụ cắt cáp vụ tàu Bình Minh và tàu Viking trong vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Biển Đông: Thế  của nước yếu, thế của nước mạnh 

Với Mỹ, điểm mà các nhà  phân tích chiến lược đặt câu hỏi là sự trỗi dậy của Trung Quốc (i) sẽ làm thay đổi cấu trúc  "đồng minh" của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương như thế nào, và cũng không kém phần quan trọng (ii) là sẽ ảnh hưởng đến lựa chọn chiến lược của các nước nhỏ hay các nước vẫn chưa định hình vị trí của mình trong bàn cờ khu vực. Trong bài toán biển Đông, trước những hành động mang tính thách thức từ phía Trung Quốc qua hành xử của tàu hải giám, phân chia vùng lãnh hải hay tự diễn dịch UNCLOS phục vụ tùy theo lợi ích, nước Mỹ dường như đứng trước ngã ba đường. Tín hiệu xuất phát gần đây từ Washington cho thấy Chính phủ Mỹ có nhiều tiếng nói khẳng định lợi ích và sự cam kết hiện diện lâu dài tại châu Á. 

Tại Diễn đàn An ninh khu vực châu Á lần thứ 10 (Đối thoại Shangri-La 2011) Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates cá cược 100 USD đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hiện diện mạnh mẽ hơn trong vòng 5-10 năm tới. Hội nghị Diễn đàn ASEAN (ARF 18) ở Bali trước đấy một tuần, Ngoại trưởng Mỹ cũng đã kêu gọi các bên giải quyết vấn đề bằng pháp lý và thông báo rằng, Mỹ sẽ đóng vai trò thúc đẩy quá trình này, khuyến cáo tất cả các quốc gia liên quan cần phân định chủ quyền theo Luật Biển quốc tế 1982. 

Mặt khác, Mỹ cũng đang đứng trước bài toán ngân sách và khó khăn tài chính, dẫn đến xu hướng đòi hỏi chính phủ xét lại các vấn đề quốc nội nên đặt làm ưu tiên hàng đầu. Cuộc tranh luận về nợ công giữa lưỡng đảng tại Quốc hội Mỹ chấm dứt nhưng chưa kết thúc, khiến cho bất kỳ cam kết hiện diện quân sự, hay giữa đảm nhiệm vai trò mạnh mẽ hơn tại trong hồ sơ tranh chấp Biển Đông không chỉ là bài toán địa chiến lược, mà còn cần được phân tích dưới góc nhìn kinh tế. "Biển Đông hay là tôi" (hiểu như người dân đóng thuế Mỹ), quan điểm của một phân tích gia trên tạp chíForeign Policy tháng 6 năm ngoái có thể xem như đại diện một trường phái trong công luận Mỹ đặt dấu chấm hỏi về phí tổn nước Mỹ phải gánh chịu và nhu cầu đứng mũi chịu sào đảm bảo "ô dù an ninh chung" cho khu vực Thái Bình Dương.
Còn với các nước nhỏ trong khối ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng, thái độ của nước mạnh Trung Quốc lúc mềm mỏng, lúc cứng rắn với từng quốc gia, diễn ra trong từng diễn đàn, từng tình huống từ Bắc Kinh tạo nên những tiên đoán khác nhau từ các nước liên quan. Hoặc như chính sách của Bắc Kinh trong hồ sơ sông Mekong thời gian vừa qua cũng gây lo ngại cho những nước ở hạ nguồn. Siêu cường Mỹ vẫn giữ vai trò số một, nhưng phần nào đang suy giảm, và không trực tiếp đụng độ lợi ích từ việc tranh chấp, vì vậy giữ nguyên hiện trạng là lựa chọn khả dĩ. Các nước nhỏ ASEAN tổn thương trực tiếp từ tiếp cận sức mạnh, vì thế cần luật hơn cần nắm đấm.
Trái banh bây giờ lăn về phía cường quốc đang lên Trung Quốc thông qua một giả định và hai câu hỏi. Giả định rằng nếu Bắc Kinh tự tin vào sức mạnh của mình sẽ vượt Nhật, vượt Mỹ, thì một trật tự mới (giống như những gì xảy ra trong lịch sử) cần được phải sắp xếp lại. Trung Quốc sẽ đi con đường nào, lựa chọn sức mạnh thủy lôi, tàu chiến, xe tăng để xây mộng bá quyền hay lựa chọn thể chế chấp nhận tự giới hạn mình vào luật, chuẩn tắc giữ vai trò "vương quyền" lãnh đạo dẫn dắt? Và ở cái thế dự đoán giữa những kịch bản khó tiên đoán trước, quan hệ Việt - Mỹ cần dựa vào điểm tựa nào để hoạch định tương lai? 

Nguyễn Chính Tâm (VietNamNet)